Quán theo Tâm Kinh _-Quán cho đến rốt ráo không
(Diễn tả lại, một cách khác, các pháp
thiền hành . . .6)
Lê Anh Chí
__________________________________________
Dàn Bài :
I) Tâm Kinh
II) Tạm dịch
III) Quán chiếu
chớ chẳng phải là triết lư
IV) Pháp Quán
V) Quán cho
đến rốt ráo không
VI) Thấy rốt ráo không
VII) Giải thoát
1) Lúc
nào cũng thấy rốt
ráo không
2)
Thấy rốt ráo
không, nên dứt bỏ
VIII) Từ ‘cuộc đời là
bể khổ’ đến ‘tất cả sự sự là
không’
__________________________________________
I) Tâm Kinh
Quán Tự Tại
Bồ tát hành thâm Bát
Nhă Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi tử!
Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành thức diệc phục như thị.
Xá Lợi tử!
Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô
sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhăn, nhĩ,
tỷ, thiệt, thân, ư; vô sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp;
vô nhăn giới năi chí
vô ư thức giới; vô vô
minh diệc, vô vô minh
tận, năi chí vô lăo
tử, diệc vô lăo tử
tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc
vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố
Bồ
Đề Tát Đỏa y Bát Nhă Ba la mật
đa cố, tâm vô quái ngại,
vô quái ngại cố; vô hữu khủng bố, viễn ly điên
đảo mộng
tưởng, cứu
cánh Niết Bàn. Tam thế
chư Phật y Bát Nhă Ba la mật
đa cố, đắc
A Nậu Đa La Tam miệu Tam Bồ đề .
Cố
tri Bát Nhă Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị
vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thật bất hư.
Cố
thuyết Bát Nhă Ba la mật
đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà
ha.
II) Tạm dịch
Quán tự tại
bồ tát hành thâm Bát
nhă ba la mật đa, soi thấy năm uẩn đều không, vượt mọi khổ ách.
Này ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác không, không
chẳng khác sắc ; sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng đều như vậy.
Ông Xá Lợi
Phất, các pháp thật không tướng, không sinh không
diệt, không dơ không sạch, không thêm không
bớt. Thế nên không-trung không có sắc
thọ tưởng hành thức, không nhăn nhĩ
tỹ thiệt thân ư, không sắc thanh hương vị xúc pháp, không
nhăn giới cho đến không ư thức giới, không vô minh và
sự diệt tận của vô minh, cho
đến không lăo tử và
sự diệt tận của lăo tử, không
khổ tập diệt đạo, không trí, không
đắc, v́ không sở
đắc.
Bồ tát v́ y theo
Bát nhă ba
la mật đa nên tâm không bị
chướng ngại,
v́ không bị chướng ngại nên không
khiếp sợ, ĺa xa mộng
tưởng điên
đảo, đạt
được Niết
Bàn. Chư Phật ba đời y theo Bát nhă ba
la mật đa nên
được vô
thượng bồ
đề.
Do đó
mà biết Bát nhă ba
la mật đa là bài
chú rất thần diệu : bài chú rất
sáng chói, bài chú vô
thượng , vô đẳng đẳng, trừ được hết thảy khổ năo ; chắc
thật, không hư ngụy.
Nên nói chú Bát nhă ba
la mật đa :
Yết đế,
yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà
ha.
Lưu Ư
Bản
dịch này tương tự như hầu hết các bản
dịch khác , chỉ khác
một điểm cực kỳ quan trọng đó là chữ ‘không-trung’
Tôi dùng chữ
‘không-trung’ để
dịch . . . ‘không-trung’
của bản phiên âm chữ
Hán.
Thiết
tưởng dịch
như vậy mới đúng, bởi v́ mục
đích là thấy chính‘không-trung’ không có sắc
thọ tưởng hành thức vv . . .; chớ dịch là Chân Không (như
những bản dịch chính thức) th́ có
ư nói rằng trong‘không-trung’ lại không thấy như vậy.
III) Quán chiếu chớ chẳng phải là triết lư
Phật Pháp có mục đích là
Giải thoát với 84000 Pháp môn.
Theo Phật Pháp tức là mong muốn
Giải thoát
Tu theo Phật Pháp tức là thực
hành để đạt Giải thoát
Tu theo Phật Pháp chẳng phải là
triết lư về cuộc đời, về vũ trụ.
Mà là sự thực hành
Cụ thể là Tâm Kinh :
Tâm
Kinh chẳng phải là triết lư, mà là sự thực
hành ; thực hành Tâm Kinh là Quán chiếu
Quán chiếu như
thế nào ?
IV) Pháp Quán
Quán rằng năm uẩn là không
Quán rằng sắc tức là không, không tức
là sắc ; thọ tưởng hành thức cũng đều như vậy.
Quán rằng các pháp không
sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không
bớt.
Quán rằng không-trung không có sắc thọ tưởng hành thức, không nhăn nhĩ
tỹ thiệt thân ư, không sắc thanh hương vị xúc pháp, không
nhăn giới cho đến không ư thức giới.
Quán rằng không có vô
minh và sự diệt tận của vô minh
Quán rằng không có lăo
tử và sự diệt tận của lăo tử
Quán rằng không có khổ
tập diệt đạo, không trí, không đắc, không sở đắc.
V) Quán cho đến rốt ráo không
Quán theo Tâm Kinh là Quán cho
đến rốt ráo không
Bởi
v́ ta quán cho đến
không có vô minh và
sự diệt tận của vô minh
không có lăo tử và
sự diệt tận của lăo tử
không có khổ tập diệt đạo, không trí, không
đắc, không sở đắc.
VI) Thấy rốt ráo không
Quán cho đến
rốt ráo không
để
Thấy rốt ráo
không
VII) Giải thoát
1) Lúc nào cũng thấy rốt ráo
không
Nếu cái ǵ cũng thấy là không,
ngay đến khổ cũng thấy là không ! th́ đâu
khổ nữa.
Bởi vậy,
Lúc nào
cũng thấy rốt
ráo không th́ Giải thoát
2) Thấy rốt ráo không,
nên dứt bỏ
‘Thấy rốt
ráo Không’, để nhàm chán, dứt bỏ, không luyến ái các
pháp.
(và
do sự dứt bỏ ấy, được giải thoát)
(Phật
dạy trong Kinh Vô Ngă
Tướng : ‘‘dứt bỏ,
không luyến ái những ǵ không đáng
ưa thích và do sự dứt bỏ ấy, được giải thoát.’’)
VIII) Từ ‘cuộc đời là
bể khổ’ đến ‘tất cả, sự sự là
không’
Từ ‘cuộc đời là bể
khổ’ :
V́
Phật Tử thấy ‘cuộc đời là bể
khổ’ nên mới tu tập để thoát ‘bể khổ’
‘cuộc
đời là bể khổ’ là thực trạng của
cuộc đời
thấy
‘cuộc đời là bể khổ’ là điều kiện
tiên quyết để tu hành
đến ‘tất cả, sự
sự là không’
Quán theo
Tâm Kinh là Quán cho
đến rốt ráo không
là quán ‘tất cả, sự sự là không’
để thấy ‘tất
cả, sự sự là không’
Thấy ‘tất
cả, sự sự là không’ là hậu quả, thành quả
của pháp Quán theo Tâm Kinh
‘tất cả, sự sự là không’ là
giải pháp cho ‘cuộc đời là bể khổ’
Nhắc
lại : giải
pháp cho ‘cuộc đời là bể khổ’ này là một
sự tu tập, chớ
chẳng phải là
triết lư
*
*
* Lê Anh Chí *.
_____________
Kinh sách tham khảo
Kinh :
Kinh
Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh
Kinh Đại Bát
Niết Bàn, Kinh Trường Bộ (Nhị Thừa),dịch
giả Thích Minh Châu
Đại
Thừa Kim Cang Kinh Luận
Cuộc
đời Đức Phật (Trích dẫn Kinh), dịch
giả Thích Trung Quán
Kinh
Kim Cang, dịch giả Đoàn Trung C̣n
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Trí Tịnh
Kinh
Kim Cang và Chánh Pháp chưa từng có, dịch và chú giải :
Thích Huyền Vi
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Duy Lực
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Thiện Hoa
Kinh
Lăng Nghiêm, dịch giả Trí
Độ và Tuệ Quang
Kinh
THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG, dịch giả Thích Nhẫn Tế
Kinh
Trường A Hàm, dịch
giả Thích
Thiện Siêu
Kinh Trường Bộ
(Nhị Thừa),dịch giả Thích Minh Châu
Kinh Vô Ngă Tướng,
dịch
giả Phạm Kim
Khánh
Pháp
Trích Lục, Huỳnh văn Niệm trích lục.
Ngữ Lục (đến đời
Lục Tổ):
Sáu
cửa Thiếu Thất, Đạt Ma Sư Tổ,
dịch giả Trúc Thiên
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy
Lực
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh
Trực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác, dịch giả Trúc Thiên
Ngữ Lục (sau đời Lục
Tổ):
Bá
Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy
Lực
Truyền
Tâm Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch giả Thích Duy Lực
Cội
nguồn truyền thừa và phương pháp tu tŕ của
thiền tông, Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền
Chơn
tâm trực thuyết, Phổ Chiếu
Lâm
Tế Ngữ Lục
Thiền
Đốn Ngộ, nhiều tác giả :
Huyền Giác, Huệ Hải, Thạch Thành Kim, Oánh
Sơn, Hư Vân; dịch
giả Thích Thanh Từ
Tọa
Thiền Luận, Đại Giác, dịch giả Như
Hạnh
Tu tâm
quyết, Phổ Chiếu
Sách :
Tứ Diệu
Đế, Thích Thiện Hoa
Cuộc
đời Thánh Tăng Đại Ca Diếp, Nguyễn
Điều,
Cuộc
đời Tôn Giả Xá Lợi Phất, Nguyễn
Điều,
Cuộc
đời Tôn Giả Mục Kiền Liên, Nguyễn
Điều,
Đường
Mây Trên Đất Hoa, Thích Hằng Đạt và Nguyên Phong
Phật
Giáo Khái Luận, Thích Chơn Thiện
*
*
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
Mục Lục Thơ ‘họa thơ,
lẩy Kiều’
Mục Lục ‘‘Kiến Tánh Thành Phật’’
----------------------------------------------------------------
* Trang Chính
* M
ụ c L ụ c * Đoản
Luận * Thơ 1 * Thơ
2
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Nối kết Trang Nhà Phật
Pháp Việt Nam * Nối kết Văn Học *
------------------------------------------------------------------------------
* Bài
Xưa
* Bài
mới Kiến Tánh * Bài
mới Trang LêAnhChí *
---------------------------------------------------------------
*
Liên Kết
TrangNhà LêAnhChí :
* Trang Chính * Việt
Sử, Văn Học *
Thơ * Bài mới LêAnhChí *