Tổ Bách
Trượng : ‘‘Không lầm nhân quả !’’
Lê Anh Chí
__________________________________________
Dàn Bài :
I) Vài nét về Tổ Bách Trượng và thời đại
vàng son của Thiền-tông
II) Lược truyện ‘‘Tổ Bách Trượng độ
hồ ly’’
III) ‘‘Không lầm nhân quả !’’ và những bản dịch
khác
IV) Một số sai biệt nhỏ
V) Bậc
đại tu hành có c̣n chịu luật nhân quả không?
VI) Bậc đại tu hành có c̣n rơi vào nhân quả không?
1) Người đắc đạo có c̣n rơi vào nhân
quả không?
a)
Nghiệp báo từ bao nhiêu
kiếp trước đem lại
b)
Nghiệp từ khi đắc đạo
_Thân ,
Khẩu, Ư nghiệp ; tác ư và không tác ư
_Pháp
thí
_Gia
tài thiện nghiệp kếch sù
2) Bậc
đại tu hành có c̣n rơi vào nhân quả không?
(
C̣n Tiếp )
__________________________________________
Tổ Bách
Trượng
Có người bách bộ
xuyên dương
Có sư Bách Trượng tâm
vương hiển bày
Chồn tinh cũng
đến học thầy
‘‘Không lầm nhân quả !’’
khéo tầy, khéo phân . . .
(
Lê Anh Chí )
I) Vài nét về Tổ Bách Trượng và thời
đại vàng son của Thiền-tông
Mă Tổ có nhiều đệ tử
lỗi lạc (Mă Tổ là học tṛ Hoài Nhượng, Hoài
Nhượng là đệ tử của Lục Tổ),
trong đó có bốn vị nổi tiếng nhất :
_Nam Tuyền Phổ Nguyện
_Bách Trượng Hoài Hải
_Huệ Hải Đại Châu
_cư sĩ Bàng Long Uẩn
Thời đại của những
vị này là thời cực thịnh của Thiền Tông.
a) Tổ Nam Tuyền Phổ Nguyện
có danh vọng rất lớn, và cũng là người
bị ‘sử gia’ Tông Giám (1257) buộc tội nói dối : đă "sáng tác" ra bài
kệ, rồi lừa dối chúng sinh bảo đó là
của Tổ Đạt Ma.
(Bài kệ của Tổ Đạt Ma
Ngoài giáo truyền riêng
Chẳng
lập văn tự
Trực
Chỉ Chân Tâm / Trực Chỉ MINH Tâm
Kiến
Tánh Thành Phật
( xem
bài Trực Chỉ. . . MINH Tâm ! ))
Sự thực th́ Nam Tuyền Phổ Nguyện chẳng dại
ǵ mà phạm tội Đại Vọng Ngữ, nếu
Tổ có sáng tác ra bài kệ nào th́ cứ nói ra là của ḿnh.
Xem bài :
Ngũ
Tổ và bài kệ của Tổ Đạt Ma
Lục
Tổ và bài kệ của Tổ Đạt Ma
Tổ Đạt Ma và bài kệ của
Tổ Đạt Ma
b) Thiền-sư Huệ Hải
Đại Châu để lại cho đời cuốn
"Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn".
Cuốn ngữ lục này kiến giải sâu xa, lư luận
biến ảo dị kỳ và cũng là cuốn
"Trực Chỉ" của Thiền Tông.
Xem Thiền Đốn Ngộ,
dịch giả Thích Thanh Từ.
c) Bàng cư sĩ c̣n được
tôn vinh là Tương Dương Bàng Đại Sĩ.
Bàng cư sĩ vừa là học tṛ Mă
Tổ vừa là học tṛ Thạch Đầu. Cũng nên
nói : Thạch Đầu cùng giảng đạo
đồng thời với Mă Tổ, nhưng chính ra
Thạch Đầu là sư thúc của Mă Tổ. Thạch
Đầu là học tṛ của Lục Tổ, khi Lục
Tổ viên tịch th́ Thạch Đầu mới là một
sa di . . .
d) Vân phong
của Tổ Bách Trượng là:
Tâm Tánh vô nhiễm
Vốn tự viên thành
Tổ Bách Trượng là
người đă đặt ra ‘Bách Trượng Thanh qui’,
ṭng lâm của Thiền-tông từ đó đến nay
vẫn theo qui chế này.
II) Lược truyện ‘‘Tổ Bách Trượng độ
hồ ly’’
Lược truyện ‘‘Tổ Bách Trượng độ
hồ ly’’ :
Mỗi ngày Sư (Bách Trượng ) thăng ṭa thường
có một cụ già theo chúng nghe pháp. Một hôm mọi
người giải tán rồi mà cụ không đi. Sư
mới hỏi
"Ông c̣n muốn hỏi ǵ
?".
Cụ già đáp :
"Tôi chẳng phải thân
người. Đời trước tôi vốn làm trụ
tŕ. Có người tham học hỏi tôi : "Bậc
đại tu hành có c̣n rơi vào nhân quả không?". Tôi
đáp :‘‘Không rơi nhân quả’’
("Bất lạc nhân quả"), nên bị đọa
làm thân Dă Hồ tinh (chồn) đă năm trăm năm. Nay
xin Ḥa Thượng từ bi chỉ dạy để tôi
được giải thoát thân chồn.
Sư nói : "Ông hỏi lại
ta ".
Cụ già bèn hỏi : " Bậc
đại tu hành có c̣n rơi vào nhân quả không?".
Sư nói : ‘‘Không lầm nhân
quả !’’
Cụ già bèn đảnh lễ và
thưa rằng : "Nay nương đại ngôn của
Ḥa Thượng, tôi đă siêu thoát thân Dă Hồ, tôi ở
hang sau núi, xin Ḥa Thượng lấy lễ tống táng theo
nhà sư cho".
III) ‘‘Không lầm nhân quả !’’ và những bản dịch
khác
Tổ Bách Trượng nói : ‘‘Không
lầm nhân quả !’’ Nguyên văn câu chữ Hán là ‘‘Bất muội nhân quả !’’ HT
Thanh Từ dịch là‘‘Không lầm nhân quả !’’, vào
đầu thập niên 1970, trong cuốn
Thiền Đốn Ngộ
1)
Dịch là ‘‘Không lầm
nhân quả !’’ th́ quá đúng rồi !
2) Vào thập niên 1990, cố HT Duy
Lực dịch là ‘‘nhân
quả rơ ràng !’’. Dịch như vậy, th́ không đúng
lắm.
(cố HT Duy
Lực thiền lư cao thâm, nhưng v́ là gốc người
Hoa, nên đôi khi cách hành văn chữ Việt không
được chỉnh)
3)
Tệ hại nhất là có một bản dịch Anh
Ngữ hoàn toàn sai, người Việt lại học sách
chữ Anh và dịch lại ra tiếng Việt là :
_Kẻ
giác ngộ vẫn c̣n chịu luật nhân quả
Dịch
như vậy th́ SAI Bét , chẳng có ǵ là ‘‘Bất muội nhân quả!’’,
lại mất đi hết sắc thái chuyển ngữ
của Thiền-tông !
IV)
Một số sai biệt nhỏ
1) Câu
chuyện trên có một số sai biệt nhỏ khi
được kể ở nơi khác :
_có chỗ nói rằng ông già chồn là
‘Bậc đại tu hành’
thời Phật Ca Diếp
_có
chỗ nói rằng ông già chồn đă bị đọa
thân chồn 500 kiếp
2) Có
những sai biệt như vậy, v́ Ngữ Lục của
các tổ sư không do các Tổ tự viết ra, mà do các
đệ tử, đồ tôn _có khi đến mấy
đời sau viết ra, nên người ta nhớ khác nhau
đi .
3)
Điều chính yếu là những câu :
_"Bậc đại tu hành có
c̣n rơi vào nhân quả không?".
_‘‘Không rơi nhân quả’’
("Bất lạc nhân quả")
_v́ trả lời như vậy
nên bị đọa làm thân Dă Hồ
_Tổ Bách Trượng nói : ‘‘Không
lầm nhân quả !’’ (‘‘Bất muội nhân quả !’’)
C̣n
những chuyện 500 năm, 500 kiếp chồn, thời
Phật Ca Diếp ( ?) không quan trọng, mỗi
người nhớ một khác.
4) Câu
chuyện trên , ngoài ra, thường được kể
với câu :
_Cụ
già nghe xong lời Sư, th́ đại ngộ
Tôi
bỏ câu này, v́
_Cụ già xin chỉ dạy
để được giải thoát thân chồn
_Lời của Tổ Bách
Trượng là để giải thoát thân chồn cho
cụ già, nào phải để dạy Kiến Tánh
_Đối
với tôi, ‘đại ngộ’ chỉ dùng cho sự Kiến Tánh
_Trong Ngữ
Lục, người đời sau (người viết
Ngữ Lục) thường hay lạm dụng chữ ‘đại
ngộ’
V) Bậc đại tu hành có c̣n chịu luật nhân
quả không?
Câu
hỏi "Bậc đại tu hành
có c̣n rơi vào nhân quả không?" có hai điều tế
nhị.
Điều tế nhị thứ
nhất là câu hỏi liên quan đến "Bậc
đại tu hành" chớ chẳng phải người
đắc đạo. ( Sẽ nói
đến Điều tế nhị thứ hai ở
phần sau).
Ta giải đáp một phần
câu hỏi bằng cách trả lời hai câu sau :
1) Người đắc đạo có c̣n chịu luật
nhân quả không?
Người
đắc đạo chắc chắn c̣n chịu luật
nhân quả : đắc đạo rồi, nghiệp báo
từ bao nhiêu kiếp trước vẫn có thể kéo
đến.
Ví dụ rơ
ràng nhất là ngài Mục Kiền Liên, đắc A La Hán, có
thần thông đệ nhất ; 40 năm sau khi
đắc đạo , bị một bọn côn đồ
giết chết _nghiệp báo xảy đến, dù có
thần thông đệ nhất cũng không tránh
được !
Ngay
đến Đức Như Lai cũng có bệnh tật,
cũng có quả báo nhức đầu 3 ngày, khi vua Lưu
Ly đánh gịng họ Thích . . .
Trên đây là
nói về sự. C̣n về tâm người đắc
đạo th́ th́ sự nhận lănh nghiệp báo có khác
với người thường.
2) Bậc
đại tu hành có c̣n chịu luật nhân quả không?
Bậc
đại tu hành th́ có thể đă đắc đạo
hoặc chưa đắc đạo.
Một khi người đắc đạo
chắc chắn c̣n chịu luật nhân quả, th́ bậc
đại tu hành chắc chắn c̣n chịu luật nhân
quả
VI) Bậc đại tu hành có c̣n rơi vào nhân quả không?
Câu
hỏi "Bậc đại tu hành
có c̣n rơi vào nhân quả không?" có hai điều tế
nhị. Điều tế nhị thứ nhất đă nói
ở trên .
Điều
tế nhị thứ nh́ là ‘rơi vào nhân quả’ có khác
với ‘chịu luật nhân quả’ : ‘rơi vào nhân
quả’ có tính cách tích cực, c̣n ‘chịu luật nhân
quả’ có tính cách thụ động.
Ta lại giải quyết
bằng cách trả lời hai câu sau :
1) Người đắc đạo có c̣n rơi vào nhân
quả không?
a)
Nghiệp báo từ bao nhiêu
kiếp trước đem lại
Ta đă
biết người
đắc đạo chắc chắn c̣n chịu luật
nhân quả. Với Nghiệp báo từ bao nhiêu kiếp
trước đem lại, th́ chẳng có cách ǵ tránh
được. Chỉ có tâm người đắc
đạo th́ sự nhận lănh nghiệp báo có khác với
người thường
b)
Nghiệp từ khi đắc đạo
Người đắc đạo
chắc chắn c̣n chịu luật nhân quả. Và sau khi
đắc đạo th́ dù muốn dù không cũng tạo
nghiệp.
_Nghiệp
có ba : Thân , Khẩu, Ư nghiệp
_Nghiệp
lại có ba : Thiện , ác, không thiện không ác
_Nghiệp
có hai : nghiệp do tác ư và không tác ư
Hầu hết các Nghiệp tạo ra
bởi người đắc
đạo đều là thiện. Tại sao là hầu
hết mà không là tất cả ? V́ có một số
chuyện người ta hành động theo qui ước
thế gian có thể gây Nghiệp không thiện.
Ví dụ : ra ngoài đường, gặp người
quen hỏi ‘‘mạnh khoẻ ?’’ Trả lời
‘‘Khoẻ’’ , trong khi trong người không khoẻ ; như
vậy là nói dối rồi ! Cái dối này là nghiệp
rất nhẹ, gần như là không Nghiệp, v́ trả
lời như vậy là theo qui ước thế gian ,
chẳng phải thật sự là nói dối ( chẳng
lẽ gặp nhau có một phút, mà níu kéo, kể lể
bệnh t́nh của ḿnh)
Hầu hết các Nghiệp tạo ra
bởi người đắc
đạo đều là thiện, bởi v́ người đắc đạo
ít nhất cũng giữ ngũ giới.
C̣n không
tác ư th́ sao ? Làm ác mà không có ư làm ác , th́ vẫn có
nghiệp dù Nghiệp nhẹ hơn khi tác ư nhiều. Như
tội ngộ sát là Nghiệp nhẹ c̣n tác ư giết
người th́ Nghiệp rất nặng (Phật nói, trong
Thân , Khẩu, Ư nghiệp, Nghiệp của ư là nặng
nhất)
Đó là vô t́nh hay cố ư làm ác. C̣n làm
việc thiện th́ khác. làm việc thiện mà không tác ư ‘‘ta
đang làm việc thiện’’ hoặc ‘‘ta làm việc
thiện này để . . .’’, chỉ làm một cách tự
nhiên như thở ra, thở vào , th́ lại có công
đức vô lượng. Như trong kinh Kim Cang, Phật
nói ‘không trụ vào đâu cả’ mà bố thí có công
đức vô lượng.
Có xác suất là người đắc đạo
làm thiện một cách ‘không trụ’ và do đó tạo nên
công đức rất lớn lao.
Nghiệp đặc biệt của người đắc đạo là
pháp thí. Trong các bố thí th́ Pháp thí là lớn nhất, mà người đắc đạo
giảng pháp đúng và hay hơn người thường
_nhờ có sự thực chứng. Do đó thiện
nghiệp này của người
đắc đạo cũng rất lớn
Tóm lại, từ khi đắc
đạo đến khi tạ thế người đắc đạo
đă tạo nên một Gia tài thiện
nghiệp kếch sù. Sau khi
đắc đạo th́ dù muốn dù không cũng tạo
nghiệp, ( Thiện
Nghiệp cũng là
Nghiệp).
(Gia tài thiện nghiệp kếch sù ,
khi tạ thế, không bắt buộc phải xài liền
_giống như để tiền trong nhà băng, muốn
xài th́ mới xài. Một ngày nào đó, một tỉ năm
nữa chẳng hạn, nếu người đắc đạo muốn trở
lại hành đạo Bồ Tát, th́ lúc ấy có thể tùy
tiện dùng cái gia tài đó)
2) Bậc
đại tu hành có c̣n rơi vào nhân quả không?
Có hai trường hợp :
a) Nếu Bậc đại tu hành đă đắc đạo
ta
trở về với trường hợp 1) ở trên
b) Nếu Bậc đại tu hành chưa đắc đạo
Bậc
đại tu hành chưa đắc đạo có
thể có đủ ‘tài năng’, đức độ
để tránh rơi vào nhân
quả không?
_Nghiệp báo từ bao nhiêu kiếp trước đem
lại : bắt buộc phải nhận lănh
_Nghiệp báo từ ngày là ‘Bậc đại tu hành’ :
ngay người đắc
đạo dù
muốn dù không cũng tạo nghiệp, Thiện
Nghiệp. Bậc
đại tu hành chưa đắc đạo không
biết ‘tài năng’, đức độ, như thế
nào ? Có lẽ phải xét đoán từng trường
hợp riêng. Xác suất 80 % là Bậc đại tu hành chưa đắc đạo có
thể, song song với
Thiện Nghiệp, tạo ác nghiệp, như giảng
đạo sai chẳng hạn . . .
(
C̣n Tiếp )
*
*
* Lê Anh Chí *.
_____________
Kinh sách tham khảo
Kinh :
Kinh
Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh
Đại
Thừa Kim Cang Kinh Luận
Cuộc
đời Đức Phật (Trích dẫn Kinh), dịch
giả Thích Trung Quán
Kinh
Trường A Hàm, dịch
giả Thích
Thiện Siêu
Kinh
Kim Cang, dịch giả Đoàn Trung C̣n
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Trí Tịnh
Kinh
Kim Cang và Chánh Pháp chưa từng có, dịch và chú
giải : Thích Huyền Vi
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Duy Lực
Ngữ Lục (đến đời
Lục Tổ):
Sáu
cửa Thiếu Thất, Đạt Ma Sư Tổ,
dịch giả Trúc Thiên
Luận
Tối Thượng Thừa , Ngũ Tổ, dịch
giả Thích Thanh Từ
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh
Trực
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy
Lực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác,
dịch giả Trúc Thiên
Ngữ Lục (sau đời Lục
Tổ):
Bá
Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy
Lực
Truyền
Tâm Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch giả Thích Duy Lực
Cội
nguồn truyền thừa và phương pháp tu tŕ của
thiền tông, Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền
Chơn
tâm trực thuyết, Phổ Chiếu
Lâm
Tế Ngữ Lục
Thiền
Đốn Ngộ, nhiều tác giả :
Huyền Giác, Huệ Hải, Thạch Thành Kim, Oánh
Sơn, Hư Vân; dịch
giả Thích Thanh Từ
Tọa
Thiền Luận, Đại Giác, dịch giả Như
Hạnh
Tu tâm
quyết, Phổ Chiếu
Sách :
Tứ Diệu
Đế, Thích Thiện Hoa
Thiền
Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ
Tổ
Thiền Tông, Thích Thanh Từ
Cao Tăng Dị
Truyện, Hạnh Huệ biên dịch
Thiền Luận, Tập Thượng
. Suzuki, dịch giả Trúc Thiên
*
*
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
-------------------------------------------------------
* Trang Chính
* M
ụ c L ụ c * Đoản
Luận * Thơ *
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Nối
kết Trang Nhà Phật Pháp Việt Nam * Nối kết Văn Học *
------------------------------------------------------------------------------
Bài
mới Kiến Tánh * Bài mới Trang LêAnhChí *
--------------------------------------------------