Định nghĩa
định danh 6
Lê Anh Chí
__________________________________________
Dàn Bài :
Dẫn nhập : Đại
Việt Sử Kư Toàn Thư là quốc
sử của nhà Trịnh, chẳng
phải của nhà Lê
Dẫn nhập : Đời Vua Lê Thái
Tổ , Lê Thái Tông là thời Nghiêu Thuấn
Dẫn nhập : Trần Nguyên Hăn
là kẻ tử thù của nhà Hậu Trần và là kẻ phản nghịch
X) Ḥa thượng Ni, Sư cụ Ni
... ?
XI) Điện
Hạ, Các Hạ, Túc Hạ, ... và Tại Hạ
XII) Tăng Thống, Quốc Sư
XIII) Chân Ngă, Bản Ngă, Bản Tâm,
Tự Ngă, Ngă
XIV) Bản Lai Diện Mục
XV) Hằng Hà sa số và hằng hà sa
số
XVI) Điểm yếu, yếu
điểm, th́nh ĺnh, bất th́nh ĺnh
XVII) Cô gia, Quả nhân
XVIII) Truyền đăng
(C̣n
Tiếp)
__________________________________________
Tiếp tục loạt bài ‘Định
nghĩa định danh’, bài này nói về những từ
ngữ Phật giáo (như Tăng Thống
Quốc Sư Bản Lai Diện Mục Hằng Hà sa số
Truyền đăng ...) , ngoài Phật giáo như Điện Hạ, Các Hạ, Túc Hạ,
Tại Hạ, Điểm yếu, yếu
điểm, Cô gia, Quả nhân...
Dàn Bài bài trước:
I) Vơ nghệ cao cường thay v́ ‘có
sức khỏe’, ‘có
sức mạnh’ ...
II) ‘Lành thay !’, ‘Tốt thay !’ ... thay v́
‘Than Ôi !’
III) Sư phụ, Sư tổ, Thái
Sư phụ
IV) Hoàng tử,
Thế Tử, Hoàng Thái tử, Hoàng Thái đệ,
Hoàng Thái tôn
V) Thái Thượng
Hoàng, Thượng Hoàng, Hoàng Thượng, Bệ Hạ
VI) Hoàng hậu, Hoàng Thái hậu, Thái
hậu, Hoàng phi, Hoàng Thái phi,
VII) Công chúa, Trưởng Công chúa
VIII) Không
IX)Thánh nhân,
Thánh vương
Vd = Ví dụ = Thí dụ
TQC = TQCDN = Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa
PG = Phật giáo
X) Ḥa thượng Ni, Sư cụ Ni ... ?
Hơn 10 năm về trước
(hiện tại là 1-2015), tôi có đọc một bài
viết trên một diễn
đàn PG , về ‘Ḥa thượng Ni’, chuyện kể
rằng có một vị ni sư bảo các Phật tử
phải, nên gọi vị đó là ‘Ḥa thượng Ni’ ;
người viết bài đó cười quá xá, những
người góp ư cũng cười (v́ họ chưa
hề nghe nói đến ‘Ḥa thượng Ni’). Chữ ‘Ḥa
thượng Ni’ th́ nghe là lạ, nhưng nghĩ lại,
theo thiển ư, th́ có lư lắm, nên lắm ! Tại
sao ? _-bởi v́ trong kinh sách có chữ ‘Tỳ kheo Ni’ hay
‘Tỳ khưu Ni’ ! (mà chẳng ai cười)
Thiết nghĩ nên có những danh
xưng như
Ḥa
thượng Ni
Thượng
Tọa Ni
Sư cụ
Ni
Cho chức vị Ni giới thêm
phần long trọng, cùng dùng với những danh xưng
đă có như ni sư, sư bà , ni cô, Tỳ khưu Ni vv
Ngày xưa th́ không cần, v́ có nhiều hoàng hậu, công
chúa đi tu (Một khi hoàng hậu, công chúa đi tu th́
đương nhiên được trọng vọng, trong
ni đoàn cũng như đối với các Phật
tử _-và nâng cấp cho các ni cùng tu)
Không rơ câu chuyện về ‘Ḥa
thượng Ni’ kể trên , diễn tiến ra sao, có
được các giáo hội để ư đến hay
không ?
XI) Điện Hạ, Các Hạ, Túc Hạ, ... và
Tại Hạ
Cùng một kết cấu
với Bệ Hạ,
Điện Hạ, Các Hạ, Túc Hạ, ... và
Tại Hạ
Điện Hạ :
Điện
= Cung Điện, Hạ = dưới , gọi ‘dưới
Điện’ tức là gọi, một cách lễ phép, các Hoàng tử, Công chúa, Thân vương, những kẻ
ở trong Cung Điện.
Các Hạ :
Các = gác,
lầu ; nhà có gác, lầu là người cao sang, gọi ‘dưới lầu’ tức là gọi người cao sang, gọi người đối diện như vậy là lễ
phép lắm
Túc Hạ :
Túc = chân ;
gọi ‘dưới chân’ tức là nể nang người, gọi người đối diện như vậy là lễ
phép
Tại Hạ :
Tại
= đây, ở đây ; Tại Hạ = đây, ở
dưới = tôi ; tự nhận
là ‘đây, ở dưới’ tức là nể nang người, tự hạ thấp ḿnh, như vậy là lễ phép
lắm.
XII) Tăng Thống, Quốc Sư
Ngày xưa, ở Đại Việt,
chức vị Tăng Thống là Quốc Sư và do nhà vua
tôn phong. (Lưu ư : tôi dùng chữ ‘tôn phong’ chớ
chẳng phải là ‘phong’). V́ chức vị Tăng
Thống là chức vị suốt đời (cũng
như vua), mà Tăng Thống thường rất thọ,
mà vua thường không được thọ, nên có
nhiều vua suốt đời chẳng hề tôn phong
Tăng Thống.
XIII) Chân Ngă, Bản Ngă, Bản Tâm, Tự Ngă, Ngă
Chân Ngă, thuật ngữ Đại
thừa, là Ngă Chân Thật , là Phật Tánh
Bản Ngă, thuật ngữ
Phân-tâm-học, là bản chất của cái Ngă thế gian,
là bản chất của Vọng Tâm
Bản Tâm, thuật ngữ Đại
thừa, là bản chất của Tâm, là Phật Tâm, là
Phật Tánh
Tự Ngă, thuật ngữ Đại
thừa, là Ngă Chân Thật , là Phật Tánh, Chân Ngă
Ngă, thuật ngữ Đại
thừa, là Tự Ngă, là Chân Ngă
Xem
XIV) Bản Lai Diện Mục
Bản Lai = xưa nay
Diện = mặt
Mục = mắt
Bản Lai Diện Mục, nghĩa
đen là mặt mắt xưa nay
Nhưng ‘mặt mắt’ là cách gọi
của người Tàu, ta gọi là ‘mặt mũi’
Như vậy, Bản Lai Diện
Mục là mặt mũi xưa nay, là bộ mặt xưa
nay, là gương mặt xưa nay
Bản Lai Diện Mục, thuật
ngữ Thiền Tông, là Ngă Chân Thật , là Phật Tánh
XV) Hằng Hà sa số và hằng hà sa số
Cụm từ ‘hằng hà sa số’
chính ra là ‘Hằng Hà sa số’ và có nghĩa là ‘số cát sông
Hằng’ ; sông Hằng ở Ấn Độ là sông
rất lớn rất dài, đặc điểm là bờ
sông có rất nhiều cát ; v́ thế đức Phật
thường nói nhiều về ‘số cát sông Hằng’,
để chỉ một số lượng rất lớn
rất nhiều, đếm không xuể !
Cụm từ ‘Hằng Hà sa số’
được dùng nhiều , dần dần trở thành
‘hằng hà sa số’ (và người ta quên đi ‘Hằng Hà
sa số’ có nghĩa là ‘số cát sông Hằng’ ) và
thường được dùng với dấu chấm than
(!), với nghĩa ‘quá nhiều’ (như số cát sông
Hằng).
Vd (trích một đoạn văn, tôi
viết về Mỹ-nhân/Anh-hùng) :
Mỹ-nhân
chẳng sánh Anh-hùng, v́ Anh-hùng trên thế gian chỉ có
một vài, c̣n Mỹ-nhân th́ hằng hà sa số !
XVI) Điểm yếu, yếu điểm, th́nh ĺnh,
bất th́nh ĺnh
Viết lại đây ư nghĩa
một số từ ngữ, mà đúng ra mọi
người đều phải biết khi bắt
đầu vào trường trung học :
a) Điểm yếu, yếu
điểm,
yếu điểm = điểm
trọng yếu = điểm quan trọng
điểm yếu = nhược
điểm
b) th́nh ĺnh, bất th́nh ĺnh
Một điều quái dị :
bất th́nh ĺnh = th́nh ĺnh
XVII) Cô gia, Quả nhân
Cô gia, Quả nhân là tiếng tự
xưng của lănh chúa, của một v́ vương ;
gọi là ‘xưng Cô, xưng Quả’
Vd
65)
Người thuyết phục
được Tôn Quyền chống Tào là Lỗ Túc,
chẳng phải Gia Cát Lượng
( Lỗ Túc nói : ‘‘bọn Túc này đều có thể hàng
Tào, riêng Chúa công không thể hàng Tào’’ )
=== === TQC :
...Lỗ Túc nói:- Lời mọi người
vừa bàn đó, thực làm hỏng việc của Chúa
công. bọn Túc này đều
có thể hàng Tào, riêng Chúa công không thể hàng Tào.
Tôn Quyền hỏi:- V́ cớ ǵ vậy?
Lỗ Túc nghiêm trang đáp:- Như bọn Túc
này mà hàng Tháo, vẫn được làm quan, thế nào Tháo
lại chẳng ban cho mỗi người một chức
Châu, Quận hoặc tương đương. Nhưng
Chúa công mà hàng Tào th́... ôi thôi, c̣n biết về đâu? Ngôi
chẳng qua đến phong Hầu. Xe bất quá được
một cỗ, ngựa bất quá được một
con, quân hầu nhiều lắm được năm
bảy tên. Như thế phỏng c̣n quay mặt
hướng Nam mà xưng
"Cô", xưng "Quả" được
chăng? ... === ===
XVIII) Truyền đăng
Truyền đăng là một
thuật ngữ Thiền Tông,
=== === Truyền
Tâm Ấn Tâm :
... Từ Tổ Ca Diếp đến Ngũ
Tổ, các Tổ truyền tâm ấn tâm từ đời
này qua đời kia, để
duy tŕ huệ mạng của Như Lai.
Gọi là
truyền đăng.
Ví như một ngọn đèn, mồi cho
ngọn đèn khác. Một đèn thành 2 đèn, 2 thành 4, . . .
thành n đèn. Thế hệ này truyền sang thế hệ
kia, đèn đèn tỏ rạng, sáng măi không cùng !
Cũng hàm chứa điều này : thiền
sinh cần có thầy, có thầy để được Chỉ
thẳng chân tâm.
Đến thời Ngũ Tổ, Ngũ
Tổ làm một cuộc đại cách mạng : ngài
dạy rằng thọ tŕ Kinh Kim Cang có thể thấy tánh.
Nghĩa là ta có thể tự tu, tự chứng Chân Tâm
bằng Kinh Kim Cang !
Kể từ đó, việc tu hành của pháp
môn Kiến Tánh gồm hai đường lối :
1) truyền tâm ấn tâm
2) tự tu bằng Kinh Kim Cang
( sau này thêm pháp
3) khán công án, thoại đầu ) ... === ===
Cả ba pháp môn
Kiến Tánh này cũng là để Truyền
đăng, để duy tŕ huệ mạng của Như
Lai. Cứ một người
được Kiến Tánh là sự
Truyền đăng được tiếp tục , duy tŕ ...
(C̣n
Tiếp)
*
*
* Lê Anh Chí *.
_____________
Kinh sách tham khảo
Kinh :
Kinh Đại Bát Niết Bàn,
dịch giả Thích Trí Tịnh
Kinh Đại Bát Niết Bàn,
Kinh Trường Bộ (Nhị Thừa),dịch giả
Thích Minh Châu
Đại
Thừa Kim Cang Kinh Luận
Cuộc đời Đức
Phật (Trích dẫn Kinh), dịch giả Thích Trung Quán
Kinh Kim Cang,
dịch giả Đoàn Trung C̣n
Kinh Kim Cang,
dịch giả Thích
Trí Tịnh
Kinh Kim Cang và
Chánh Pháp chưa từng có, dịch và chú giải : Thích Huyền
Vi
Kinh Kim Cang,
dịch giả Thích
Duy Lực
Kinh Kim Cang,
dịch giả Thích
Thiện Hoa
Kinh Lăng Nghiêm, dịch giả Trí Độ và Tuệ Quang
Kinh
THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG, dịch giả Thích Nhẫn Tế
Kinh Trường A Hàm, dịch giả Thích Thiện Siêu
Kinh Trường Bộ
(Nhị Thừa),dịch giả Thích Minh Châu
Kinh
Vô Ngă Tướng, dịch
giả Phạm Kim Khánh
Pháp Trích Lục, Huỳnh
văn Niệm trích lục.
Ngữ Lục (đến đời Lục Tổ):
Sáu cửa Thiếu Thất,
Đạt Ma Sư Tổ, dịch giả Trúc Thiên
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy Lực
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh
Trực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác, dịch
giả Trúc Thiên
Ngữ Lục (sau đời Lục Tổ):
Bá Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy Lực
Truyền Tâm Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch
giả Thích
Duy Lực
Cội
nguồn truyền thừa và phương pháp tu tŕ của
thiền tông, Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền
Chơn
tâm trực thuyết, Phổ Chiếu
Lâm Tế Ngữ Lục
Thiền Đốn Ngộ,
nhiều tác giả : Huyền Giác, Huệ Hải,
Thạch Thành Kim, Oánh Sơn,
Hư Vân; dịch giả Thích Thanh Từ
Tọa Thiền Luận,
Đại Giác, dịch giả Như Hạnh
Tu tâm
quyết, Phổ Chiếu
Sách :
Tứ
Diệu Đế, Thích Thiện Hoa
Cuộc đời Thánh Tăng
Đại Ca Diếp, Nguyễn Điều,
Cuộc đời Tôn Giả
Xá Lợi Phất, Nguyễn Điều,
Cuộc đời Tôn Giả
Mục Kiền Liên, Nguyễn Điều,
Đường
Mây Trên Đất Hoa, Thích Hằng Đạt và Nguyên Phong
Phật Giáo Khái Luận, Thích
Chơn Thiện
*
*
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
Mục Lục Thơ ‘họa thơ,
lẩy Kiều’
Mục Lục ‘‘Kiến Tánh Thành Phật’’
------------------------------------------------------------------
*
Trang Chính
* Mục
Lục * Luận 1 * Luận
2 * Thơ 1 * Thơ
2
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Nối kết Trang Nhà Phật Pháp Việt
Nam * Nối
kết Văn Học *
------------------------------------------------------------------------------
* Bài
Xưa
* Bài
mới Kiến Tánh * Bài
mới Trang LêAnhChí *
---------------------------------------------------------------
*
Liên Kết
TrangNhà
LêAnhChí :
* Trang Chính * ML_ViệtSử,Văn * ViệtSử,
Văn 3 * ViệtSử, Văn 4 * Bài mới LêAnhChí *