Trực Chỉ Nhân Tâm hay
Trực Chỉ Chân Tâm ? 4
Lê Anh Chí
__________________________________________
Dàn Bài :
I) Lược Sử
II) Tóm lược bài [1] : Nhân
Tâm và Chân Tâm đều hợp lư
III) Tóm lược bài [2] : Nếu
phải lựa chọn... và Trực chỉ minh tâm
V) Tóm lược bài [3] : Phải
vất ‘‘nhân tâm’’ ra khỏi ‘‘Trực chỉ’’ (để
tránh hiểu lầm) ...
VI) Một nghĩa khác của ‘‘nhân
tâm’’
VII) ‘Trực Chỉ Nhân Tâm’ cũng đúng
VIII) Dầu sao cũng phải vất
‘‘nhân tâm’’ ra khỏi ‘‘Trực chỉ’’ (để tránh
hiểu lầm)
IX) Tổ Thiền Tông không nói dối !
__________________________________________
Bài kệ của Tổ Đạt Ma :
Ngoài giáo
truyền riêng
Chẳng
lập văn tự
Chỉ
thẳng nhân-tâm / Chỉ
thẳng Chân Tâm
Kiến
Tánh Thành Phật
Với câu 3 có thể là :
Chỉ
thẳng nhân-tâm (Trực Chỉ Nhân Tâm)
hay
Chỉ
thẳng chân-tâm (Trực
Chỉ Chân Tâm)
Là một vấn
đề tranh luận của nhiều Phật tử
Thiền Tông, Tôi đă viết ba bài đoản luận
về vụ này. Bài này đưa ra một
nghĩa khác của ‘‘nhân tâm’’, dùng những phân tích từ
ngữ trong Quân Tử Thành Mỹ của Cúc Hiên Tiên Sinh Hội-nguyên Lê Đ́nh Diên 2 ...
Dàn Bài Bài 1:
32) Trực Chỉ Nhân Tâm hay Trực Chỉ Chân
Tâm ?
I
) Đốn Ngộ cũng là tu
II
) Ngón tay chỉ mặt trăng
III
) Trực Chỉ Chân Tâm : Thí dụ
IV
) Trực Chỉ Nhân Tâm : Thí
dụ
V
) Trực Chỉ Nhân Tâm và Chân Tâm : Thí
dụ
VI
) Nhân Tâm : căn cơ của học tṛ
VII
) Chân Tâm : mục đích của pháp môn
VIII
) Khéo dùng phương tiện !
IX
) Ba phương thức Thiền Tông : Nhân
Tâm hay Chân Tâm ?
X
) Viết lại bài kệ theo hai cách
XI
) Vấn đề sử liệu : Tổ
Thiền Tông không
nói dối !
Dàn Bài Bài 2:
(
Trực
Chỉ Nhân Tâm hay Trực Chỉ Chân Tâm ? [2] )
I) Tóm lược bài [1] : Nhân
Tâm và Chân Tâm đều hợp lư
II) Nếu phải chọn lựa . . .
III) Mục đích tu thiền là MINH Tâm
. . .
IV) Lục Tổ dùng chữ MINH Tâm và
‘tâm tỏ sáng’
V) Trần Trọng Kim có viết :
Trực Chỉ. . . MINH Tâm
VI) Ư nghĩa của Trực Chỉ
MINH Tâm
VII) Bằng chứng tối
hậu : Tổ Đạt Ma
VIII) (Ba) bài kệ của Tổ
Đạt Ma
Dàn Bài Bài 3:
81) Phải vất ‘‘nhân tâm’’ ra khỏi
‘‘Trực chỉ’’ (để tránh hiểu lầm)
(
Câu thứ ba của
bài kệ là ‘‘Trực chỉ Chân-tâm’’ hoặc
‘‘Trực chỉ minh tâm’’ )
I) Nếu phải lựa chọn
giữa ‘‘nhân tâm’’ và‘‘Chân Tâm’’ th́ . . .
II) Trực chỉ minh tâm
III) Tổ Đạt Ma :‘‘Trực
chỉ Chân Tâm’’ và ‘‘Trực chỉ minh tâm’’
IV) Ngũ Tổ: ‘‘Trực chỉ Chân
Tâm’’ và ‘‘Trực chỉ minh tâm’’
V) Lục Tổ: ‘‘Trực chỉ Chân
Tâm’’ và ‘‘Trực chỉ minh tâm’’
VI) Chữ ‘‘nhân tâm’’ có nghĩa xấu,
gần như tương đương với ‘‘ḷng lang
dạ thú’’
VII) ‘‘Trực chỉ nhân tâm’’ = = >
Phân-tâm học
VIII) ‘‘Trực chỉ nhân tâm’’ = = >
pháp môn hạng bét
IX) Thiền sư Nguyệt Khê
giảng ‘‘chân tâm’’ và ‘‘minh tâm Kiến Tánh’’ thay v́ ‘‘Trực
chỉ nhân tâm’’
X) Câu thứ ba bài kệ là ‘‘Trực
chỉ Chân-tâm’’/‘‘Trực chỉ minh tâm’’
I) Lược Sử
Một nhà chú giải nổi tiếng, Suzuki, viết
trong Thiền Luận, Tập Thượng :
{{ Cuốn sử Thiền mở đầu với Bồ
Đề Đạt Ma sang Trung Quốc vào năm 520 sau
TL, mang theo một thông điệp thù thắng. Thông
điệp ấy được tóm tắt bằng mười sáu chữ này :
Chẳng lập văn tự
Truyền riêng ngoài giáo
Trỏ thẳng tâm người
Thấy tánh thành Phật
Nêu lên cơ bản lập giáo của đạo
Thiền khác hẳn với các môn phái Phật giáo khác
đương thời có ở Trung Hoa, bốn câu ấy
không phải của Đạt Ma mà do đời sau
đề ra. Thiếu tài liệu xác đáng, ta không
thể quyết đoán tác giả là ai. Theo sử gia Tông
Giám (?) tác giả bộ "Pháp chánh truyền của
Phật Thích Ca", soạn năm 1257, và soạn theo quan
điểm Thiên Thai Tông, đó là sáng kiến của Nam
Tuyền Phổ nguyện; chắc rằng công thức
ấy ra đời khi Thiền đang hồi cực
thạnh ở Giang Tây và Hồ Nam với các đại
sư Mă Tổ, Bách Trượng, Huỳnh Bá, Thạch
Đầu và Dược Sơn; và từ đó thông
điệp ấy được coi là đặc trưng
Thiền, }}
Chú
Thích, Nhận xét :
a)Tôi đă có dịp
Nhận xét rằng câu
Bồ
Đề Đạt Ma sang Trung Quốc vào năm 520
không đúng về niên đại : Tổ
Đạt Ma sang Trung Hoa vào năm Đinh Mùi, tức là
năm 527 chớ chẳng phải năm 520
b) Lời buộc tội của Tông
Giám
Theo trích dẫn trên th́ Suzuki tin lời buộc tội
của Tông Giám.
Lời buộc tội của Tông Giám là :
_bốn câu kệ này không phải của Tổ
Đạt Ma
_Nam Tuyền Phổ Nguyện nói dối : đă
"sáng tác" ra bài kệ, rồi lừa dối chúng sinh
bảo đó là của Tổ Đạt Ma.
Nhiều Phật Tử cũng tin điều này;
cứ sử gia, khảo cổ gia nói ǵ là tin ngay, vô h́nh
chung, phỉ báng Tổ Thiền Tông!
Thiệt là tệ hại ! Tệ hại nhất là
Suzuki đă nêu gương xấu.
c) Trực chỉ nhân
tâm hay Trực
Chỉ Chân Tâm ?
‘‘mười sáu chữ này’’ tức là Bài kệ nổi tiếng của vị Tổ Sư
của ta, bài kệ trấn sơn của Thiền
Tông :
Ngoài giáo
truyền riêng
Chẳng
lập văn tự
Chỉ
thẳng nhân-tâm
Kiến
Tánh Thành Phật
cũng được truyền
tụng như sau :
Ngoài giáo
truyền riêng
Chẳng
lập văn tự
Chỉ
thẳng Chân Tâm
Kiến
Tánh Thành Phật
khác nhau ở một chữ ở câu
3 (nhân và chân ) :
Chỉ
thẳng nhân-tâm (Trực Chỉ Nhân Tâm)
và
Chỉ
thẳng chân-tâm (Trực
Chỉ Chân Tâm )
II) Tóm lược bài [1] : Nhân Tâm và Chân Tâm
đều hợp lư
a) nói ‘Nhân Tâm’ là nói
căn cơ của học tṛ
b) nói Chân Tâm là nói mục đích của pháp môn
Tóm lược bài [1] : Nhân Tâm và
Chân Tâm đều hợp lư
III) Tóm lược bài [2] : Nếu phải lựa
chọn... và Trực chỉ minh tâm
a)Nếu phải chọn lựa th́ chọn
Trực Chỉ Chân Tâm !
b)Mục đích tu thiền là MINH Tâm
. . .
Câu thứ 3 bài kệ có thể là Trực chỉ minh tâm
Lục Tổ dùng chữ MINH Tâm và ‘tâm
tỏ sáng’ Xem
Tổ Đạt Ma và bài kệ của
Tổ Đạt Ma
Ngũ
Tổ và bài kệ của Tổ Đạt Ma
Lục
Tổ và bài kệ của Tổ Đạt Ma
V) Tóm lược bài [3] : Phải vất ‘‘nhân tâm’’
ra khỏi ‘‘Trực chỉ’’ (để tránh hiểu
lầm) ...
Bởi v́
_-Chữ ‘‘nhân tâm’’ có nghĩa xấu,
gần như tương đương với ‘‘ḷng lang
dạ thú’’
Cho nên,
‘‘Trực
chỉ nhân tâm’’ thường được (bị)
hiểu là ‘‘Trực chỉ vọng tâm’’
Do đó,
‘‘Trực chỉ nhân tâm’’ = = >
Phân-tâm học
‘‘Trực chỉ nhân tâm’’ = = >
pháp môn hạng bét
Kết bài [3] : Phải vất
‘‘nhân tâm’’ ra khỏi ‘‘Trực chỉ’’ (để tránh
hiểu lầm) ...
VI) Một nghĩa khác của ‘‘nhân tâm’’
Nghĩa của ‘‘nhân tâm’’ là ḷng
người, là ḷng con người , là tâm con người
Có một nghĩa khác của ‘‘nhân
tâm’’ : tâm người khác. Cái nghĩa này của ‘‘nhân tâm’’ , có thể thấy
trong những
phân tích từ ngữ của Quân Tử Thành Mỹ trong bài
133) Cúc Hiên Tiên Sinh Hội-nguyên Lê Đ́nh Diên 2
=== === Bài 133 :
...Bốn
chữ Quân Tử Thành Mỹ trước kia
được khắc trên ngưỡng cửa nhà
trường Cúc Hiên
a)
Nhắc lại rằng phương châm Quân Tử Thành
Mỹ chính là câu Luận Ngữ : Quân Tử
Thành Nhân Chi Mỹ
b)
Giải thích câu Quân Tử Thành Nhân Chi Mỹ :
Quân Tử Thành Nhân Chi Mỹ
tức
là
người quân tử lấy
việc làm thành cho người, làm đẹp
người quân tử lấy
việc làm thành toàn cho người, làm đẹp
người quân tử lấy
việc làm thành toàn cho người
(khác) , làm đẹp... === ===
Với nghĩa này của ‘‘nhân tâm’’ (tâm người khác) , ‘Trực
Chỉ Nhân Tâm’ có nghĩa là ‘Chỉ thẳng tâm của
người khác’
(tức là ‘Chỉ thẳng tâm của
học tṛ’)
Điều này phù hợp với cách
diễn nghĩa của tôi, diễn nghĩa bài kệ
của Tổ Đạt Ma, trong bài[1] :
1)
Thầy :
Ngoài giáo truyền
riêng
Thầy :
Chẳng lập văn
tự
Thầy :
Chỉ thẳng tâm
người (học tṛ)
Tṛ : Kiến
Tánh Thành Phật
2)
Thầy :
Ngoài giáo truyền
riêng
Thầy :
Chẳng lập văn
tự
Thầy :
Chỉ thẳng Chân
Tâm ( của
học tṛ)
Tṛ : Kiến
Tánh Thành Phật
VII) ‘Trực
Chỉ Nhân Tâm’ cũng đúng
Vậy ‘Trực Chỉ Nhân Tâm’ có thể dịch là
‘Chỉ
thẳng tâm của người khác’
tức là
‘Chỉ
thẳng Chân
Tâm của người
khác’
(tức là ‘Chỉ thẳng Chân Tâm của học tṛ’)
Tại sao Chân Tâm mà không là Vọng Tâm ? _-Bởi v́ Vọng Tâm là cái thá ǵ mà
phải trực chỉ ???
(Nên nhớ rằng Thiền Tông là pháp
môn Tối Thượng Thừa !)
Với diễn nghĩa này của ‘‘trực
chỉ nhân tâm’’, ta thấy rằng ‘Trực
Chỉ Nhân Tâm’ cũng đúng ! bởi v́
thật ra là cùng nghĩa với ‘Trực Chỉ Chân Tâm’
VIII) Dầu sao cũng phải vất ‘‘nhân tâm’’ ra
khỏi ‘‘Trực chỉ’’ (để tránh hiểu lầm)
Với nghĩa của ‘‘nhân tâm’’ là tâm người khác , ‘Trực
Chỉ Nhân Tâm’ có nghĩa là ‘Chỉ thẳng Chân Tâm của học tṛ’, là
cùng nghĩa với ‘Trực Chỉ Chân Tâm’
Dầu vậy, ta cũng phải vất ‘‘nhân tâm’’ ra khỏi
‘‘Trực chỉ’’ (để
tránh hiểu lầm)
Bởi v́ (tôi lập lại những
lư luận chính yếu đă viết trong bài[3]) :
a)Phần đông những người
dùng ‘‘Trực chỉ nhân tâm’’ làm phương châm tu hành
trở thành những học tṛ của khoa Phân-tâm học.
Bởi v́ ‘‘nhân tâm’’ là ‘‘vọng tâm’’, là vọng-ngă mà, nên
họ tha hồ ngồi đó, tha hồ phân tích ‘‘vọng
tâm’’, tha hồ phân tích vọng-ngă (mà họ gọi là băn ngă)
và gọi đó là tu hành !
Tha hồ phân tích như vậy rồi để làm ǵ ? Làm
sao chứng ngộ Chân-tâm, Phật-tánh ?
b) V́ ‘‘Trực chỉ nhân tâm’’ = = >
Phân-tâm học
Cho nên
‘‘Trực
chỉ nhân tâm’’ = = > pháp môn hạng bét
c) Những người thấy
cần phải được ‘‘Trực chỉ nhân
tâm’’ ; để phân tích tâm trạng nội tại
của ḿnh, chính ra là những kẻ hạ trí hạ
căn ! Tâm nổi lên ḷng tham, đố kỵ, ghét ghen
vv ; những điều đó dễ thấy. Thật
dễ ợt để thấy những tâm trạng
nội tại hạng bét
của ḿnh.
Cho nên
‘‘Trực
chỉ nhân tâm’’ = = > pháp môn hạng bét
d) Nói một cách khác,
nhân
tâm là cái thá ǵ mà phải trực chỉ ?
e) Chính ra, tại v́
ta
thấy rằng cuộc đời là bể khổ
ta
thấy rằng những tâm trạng nội tại của
ḿnh là hạng bét
cho nên ta mới tu hành
g) Nếu hiểu tu hành là phân tích tâm
trạng nội tại của ḿnh th́ pháp môn đó c̣n kém
pháp của nhà đại nho Vương Thông đời Tùy:
_Tự biết là Anh tự thắng là
Hùng
v́ Vương Thông có nói rơ là phải
‘tự thắng’ sau khi ‘tự biết’
Trong khi Thiền-tông là pháp môn Tối
Thượng Thừa !
Dầu sao cũng phải vất ‘‘nhân tâm’’ ra khỏi
‘‘Trực chỉ’’ để tránh hiểu lầm !
IX) Tổ
Thiền Tông không
nói dối !
a)Trong bài[1] ( Trực
Chỉ Nhân Tâm hay Trực Chỉ Chân Tâm ?),
tôi đă trưng ra những lư do xác định rằng Tổ Thiền Tông không nói dối ! Chép lại đây , một đọan văn :
=== === C̣n sử
gia Tông Giám lấy
ḷng dạ tiểu nhân đo lường người quân
tử, lấy ḷng dạ phàm nhân đo lường bậc
thánh ! mới dám
bảo Tổ Nam Tuyền
Phổ Nguyện nói dối !
Vả lại, hắn
là hậu sinh, lại
chẳng phải là
đệ tử Thiền
Tông , làm sao biết
Thiền Tông lưu
truyền những ǵ ? Nhất
là đây là pháp
môn
Ngoài giáo truyền riêng
Chẳng lập văn
tự ?
C̣n bốn câu kệ này "ra đời"
khi đang hồi cực thạnh Thiền Tông, th́ dĩ nhiên
rồi ! Lúc Thiền
Tông chỉ có
lèo tèo vài
người, th́ người
đời làm sao nghe nói
được đến công
thức ấy ! ... === ===
b)Như đă nói ở trên, nhiều
Phật Tử cũng tin lời buộc tội của Tông
Giám; cứ sử gia, khảo cổ gia nói ǵ là tin ngay, vô
h́nh chung, phỉ báng Tổ Thiền Tông!
c)Ngoài ra, người Việt hay nói
dối, nói láo ; có nhiều cư sĩ Phật Giáo cũng tiếp tục nói dối,
nói láo , chuyện nói dối, nói láo, đối với
họ, là chuyện thường cho nên họ thản
nhiên tin rằng, nói rằng Tổ Thiền
Tông nói dối . Họ cần tự quán sát vọng
tâm họ, để xem rằng họ có nói dối, nói láo hay không ; và biết rằng nói dối, nói láo
là phạm giới, phạm giới cư sĩ !
d)Hơn nữa, tự ḿnh là tác
giả bài kệ, lại gán tên tác giả cho người
khác là quái đản vô cùng ! Việc này khó thể
xảy ra : thông thường th́ ngược lại,
chép bài của thiên hạ, rồi bảo là của ḿnh !
(nhiều người Việt vẫn c̣n làm thế trên
Internet !)
e) Tôi đă xác định là
trước
Tổ Nam Tuyền Phổ
Nguyện , Ngũ Tổ và Lục Tổ
đă thực hành bài kệ của Tổ Đạt Ma ;
ngay đến Tổ Đạt Ma cũng đă diễn
tả bài kệ của ngài.
Xem
Tổ Đạt Ma và bài kệ của
Tổ Đạt Ma
Ngũ
Tổ và bài kệ của Tổ Đạt Ma
Lục
Tổ và bài kệ của Tổ Đạt Ma
*
*
* Lê Anh Chí *.
______________
Kinh sách tham khảo
Kinh :
Kinh Đại Bát Niết Bàn,
dịch giả Thích Trí Tịnh
Kinh Đại Bát Niết Bàn,
Kinh Trường Bộ (Nhị Thừa),dịch giả
Thích Minh Châu
Đại
Thừa Kim Cang Kinh Luận
Cuộc đời Đức
Phật (Trích dẫn Kinh), dịch giả Thích Trung Quán
Kinh Kim Cang,
dịch giả Đoàn Trung C̣n
Kinh Kim Cang,
dịch giả Thích
Trí Tịnh
Kinh Kim Cang và
Chánh Pháp chưa từng có, dịch và chú giải : Thích Huyền
Vi
Kinh Kim Cang,
dịch giả Thích
Duy Lực
Kinh Kim Cang,
dịch giả Thích
Thiện Hoa
Kinh Lăng Nghiêm, dịch giả Trí Độ và Tuệ Quang
Kinh
THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG, dịch giả Thích Nhẫn Tế
Kinh Trường A Hàm, dịch giả Thích Thiện Siêu
Kinh Trường Bộ
(Nhị Thừa),dịch giả Thích Minh Châu
Kinh
Vô Ngă Tướng, dịch
giả Phạm Kim Khánh
Pháp Trích Lục, Huỳnh
văn Niệm trích lục.
Ngữ Lục (đến đời Lục Tổ):
Sáu cửa Thiếu Thất,
Đạt Ma Sư Tổ, dịch giả Trúc Thiên
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy Lực
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh
Trực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác, dịch
giả Trúc Thiên
Ngữ Lục (sau đời Lục Tổ):
Bá Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy Lực
Truyền Tâm Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch
giả Thích
Duy Lực
Cội
nguồn truyền thừa và phương pháp tu tŕ của
thiền tông, Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền
Chơn
tâm trực thuyết, Phổ Chiếu
Lâm Tế Ngữ Lục
Thiền Đốn Ngộ,
nhiều tác giả : Huyền Giác, Huệ Hải,
Thạch Thành Kim, Oánh Sơn,
Hư Vân; dịch giả Thích Thanh Từ
Tọa Thiền Luận,
Đại Giác, dịch giả Như Hạnh
Tu tâm
quyết, Phổ Chiếu
Sách :
Tứ
Diệu Đế, Thích Thiện Hoa
Cuộc đời Thánh Tăng
Đại Ca Diếp, Nguyễn Điều,
Cuộc đời Tôn Giả
Xá Lợi Phất, Nguyễn Điều,
Cuộc đời Tôn Giả
Mục Kiền Liên, Nguyễn Điều,
Đường
Mây Trên Đất Hoa, Thích Hằng Đạt và Nguyên Phong
Phật Giáo Khái Luận, Thích
Chơn Thiện
*
*
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
Mục Lục Thơ ‘họa thơ,
lẩy Kiều’
Mục Lục ‘‘Kiến Tánh Thành Phật’’
------------------------------------------------------------------
*
Trang Chính
* Mục
Lục * Luận 1 * Luận
2 * Thơ 1 * Thơ
2
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Nối kết Trang Nhà Phật Pháp Việt
Nam * Nối
kết Văn Học *
------------------------------------------------------------------------------
* Bài
Xưa
* Bài
mới Kiến Tánh * Bài
mới Trang LêAnhChí *
---------------------------------------------------------------
*
Liên Kết
TrangNhà
LêAnhChí :
* Trang Chính * ML_ViệtSử,Văn * ViệtSử,
Văn 3 * ViệtSử, Văn 4 * Bài mới LêAnhChí *