HTNg Anh nói ‘Một là Đại Anh Hùng, hai là
Đại Lưu manh’
(Danh xưng Đại Trượng
Phu ! 2)
Lê Anh Chí
__________________________________________
Dàn
Bài :
I) Người đẹp ngồi một ḿnh trên
băng đá
II) Ng. Anh coi chỉ tay
và nói ‘Một là Đại Anh Hùng, hai là Đại Lưu manh’
III) Chẳng phải là
Đại
Anh Hùng , chẳng phải là
Đại Lưu manh
IV)
Dấu hiệu ‘Một là Đại Anh Hùng ...’ theo
phép coi chỉ tay Tây Phương
V)
Dấu hiệu ‘Một là Đại Anh Hùng ...’ bắt
đầu có ư nghĩa từ khi ...
VI)
Nhắc lại : Đại
Trượng Phu trong Phật Pháp
VII)
Nhắc lại : Cư sĩ đă Kiến Tánh, Đại Sĩ , Thượng Sĩ
VIII)
Nhắc lại : Lư do của tôn hiệu Đại Trượng Phu
IX)
Chữ ‘Đại Anh Hùng’ mà Ng. Anh dùng là ‘Đại Trượng Phu’
X)
Đề nghị : Thiền sư đă Kiến
Tánh gọi là Đại Sư
Đề nghị :
Cư sĩ đă Kiến Tánh gọi là Đại Sĩ
__________________________________________
Ngày
xuân nói chuyện coi bói, coi chỉ tay.
Cách đây gần 50 năm, một ngày
vào khoảng tháng 2, lớp học Dược của tôi,
theo đề nghị của một người trong
lớp, đến học thêm về thí nghiệm ở
một cơ quan nào đó. Tôi tháp tùng thiên hạ, loay hoay
đập chầy đập cối một lúc, loay hoay suy
nghĩ vẩn vơ ; khi ngẩng đầu lên, th́
thấy pḥng
thí nghiệm gần như vắng tanh :
bọn con trai trốn đi đâu mất tiêu, bọn con gái chỉ c̣n một người đẹp đang bị thiên hạ xúm
lại tán tỉnh.
Tôi
bèn quyết định dời chân ra vườn,
để thiên hạ ‘mần ăn’.
Bèn
bước ra vườn ...
I) Người
đẹp ngồi một ḿnh trên băng đá
Tôi
bước ra vườn, thơ thẩn bước
tới bước lui vài bước . Bỗng thấy có
một người đẹp đang ngồi
một ḿnh trên băng đá , gần cổng chính.
Nh́n kỹ lại, th́ chẳng phải
ai xa lạ, mà là HTNg. Anh, chính thị người
đẹp của lớp học Dược của tôi, người đẹp này chính ra đẹp
hơn người đẹp đang bị
thiên hạ xúm lại tán tỉnh trong pḥng thí nghiệm.
Cũng
may, người đẹp này không người
xúm lại tán tỉnh nên tôi c̣n có người để bàn chuyện.
Tôi
bèn bước đến gần băng
đá và người đẹp.
II) Ng. Anh coi chỉ tay
và nói ‘Một là Đại Anh
Hùng, hai là Đại Lưu manh’
...
Câu chuyện xoay quanh việc tôi sắp đi du học,
(khoảng 6 tháng nữa) ; một lúc
sau, Ng. Anh ngỏ ư muốn coi chỉ tay
của tôi, tôi ‘ngoan ngoăn’ ch́a tay ra, Ng. Anh coi chỉ tay , xem
đi xem lại cẩn thận và nói
‘Lạ quá,
Lạ quá !! Bàn tay có một Dấu hiệu lạ ;
Anh thiệt không biết nói sao
Có người giảng về
Dấu hiệu này cho Anh là : người
nào bàn tay có Dấu hiệu này th́ Một là
Đại
Anh Hùng, hai là Đại Lưu manh !’
Tôi thu hồi bàn tay lại và
cười kh́.
III) Chẳng
phải là Đại Anh Hùng ,
chẳng phải là Đại Lưu manh
Dĩ nhiên , tôi có thừa sáng suốt
để biết rằng tôi chẳng phải là Đại
Anh Hùng , Anh Hùng c̣n chẳng thể làm
được
Tôi, dĩ nhiên , chẳng
phải là Đại Lưu manh ; cũng chẳng
thể làm Lưu manh được
IV) Dấu
hiệu ‘Một là Đại Anh
Hùng ...’ theo phép coi chỉ tay Tây Phương
Tôi
có đọc phép coi chỉ tay của người Tây
Phương. Cái Dấu
hiệu ‘Một là Đại Anh Hùng ...’ này,
theo họ chẳng có ǵ cao siêu lắm.
(người Tây Phương từ 200 năm nay,
đại khái hoàn cảnh của họ làng nhàng như
nhau, họ cũng được giáo dục làng nhàng như nhau. Xă hội
dần dần tiến đến chỗ trung b́nh :
mọi người, ít nhất về phương diện
tính t́nh, dần dần sẽ xấp xỉ như nhau ...
(không anh hùng, chẳng
Lưu manh , không Quân Tử, chẳng
tiểu nhân).
Do
đó chẳng có ǵ đáng ngạc nhiên nếu những
lời đoán về phép coi chỉ
tay của người Tây Phương, thiên về
đức hạnh trung b́nh ...)
V) Dấu
hiệu ‘Một là Đại Anh
Hùng ...’ bắt đầu có ư nghĩa từ khi ...
Dấu
hiệu ‘Một là Đại Anh Hùng ...’
bắt đầu có ư nghĩa từ khi tôi tu thiền, theo Thiền Tông.
Tu thiền, theo Thiền Tông, tôi dần dần
thấy rằng ta có thể trở thành kẻ Đại
Trượng Phu, mà không cần phải lập nên những
vơ nghiệp, công nghiệp
lớn lao vĩ đại như Vua Lê Thái Tổ (khôi
phục lại giang san, đem lại thái b́nh thịnh
trị hạnh phúc cho dân tộc ...)
VI) Nhắc
lại : Đại
Trượng Phu trong Phật Pháp
Trong Phật Pháp , Đại
Trượng Phu là Bồ Tát, c̣n được gọi là
Đại Sĩ, Thượng Sĩ.
Ở quả vị Bồ Tát ( trên
quả A La Hán), th́ không c̣n phân biệt nam nữ. Như
hầu hết mọi người đều biết, Quán
Thế Âm Bồ Tát là đàn ông, nhưng thường
thị hiện là người nữ !
Trong văn chương lịch
sử, Anh Hùng cao cả hơn Đại Trượng Phu (
Nhắc lại ví dụ : Vua Lê Thái Tổ là bậc Anh Hùng ! ) ; nhưng trong
Phật Pháp, Đại Trượng Phu là Bồ Tát, nên
hơn
bậc Anh Hùng và Đại Anh
Hùng !
VII) Nhắc
lại : Cư sĩ
đă Kiến Tánh, Đại Sĩ , Thượng Sĩ
Trong
thực tế, xưa nay ta và Tàu có 3 cư sĩ đă
Kiến Tánh, lại được gọi là Đại Sĩ, Thượng Sĩ ( tức Bồ
Tát) ; đó là
_Hàn San Đại Sĩ
_cư
sĩ Bàng Long Uẩn : Tương Dương Bàng
Đại Sĩ
_cư
sĩ Trần Quốc Tung : Tuệ Trung Thượng Sĩ
Hàn San được gọi là
Đại Sĩ, th́ phải rồi v́ là hóa thân của
Bồ Tát Văn Thù.
C̣n Bàng Long Uẩn và Trần
Quốc Tung th́ chắc chắn không phải là Bồ
Tát, Tuệ Trung từng có câu thơ :
_Bồ
tát nói pháp, ta nói thiệt !
Vậy Đại Trượng Phu c̣n
được dùng để chỉ cư sĩ
đă Kiến Tánh ( dù dùng SAI !)
VIII) Nhắc
lại : Lư do của
tôn hiệu Đại Trượng Phu
Có
lư do tại sao người đời gán danh
hiệu này (Đại Sĩ, Thượng Sĩ ) cho
những cư
sĩ đă Kiến Tánh (và được kính trọng) ;
đó là, cư sĩ đă Kiến Tánh không có danh xưng :
a)
Kiến Tánh th́ là Tổ ; nhưng cũng ít khi gọi những cư
sĩ đă Kiến Tánh là Tổ !
b) đúng luật người
đă Kiến Tánh th́ là Thiền Sư, nhưng v́ Sư
thường để chỉ kẻ xuất gia, nên
người đời cũng ít khi gọi những cư
sĩ đă Kiến Tánh là Thiền Sư !
c)
Kiến Tánh Thành Phật , nhưng người Kiến Tánh
lại chẳng tự xưng là Phật !
Xem bài viết:
_Kiến Tánh Thành Phật
Do
đó, người đời phải gán danh
hiệu nào, ở duới Phật, mà trên tất
cả !
Nên có
Danh xưng Đại Trượng Phu ! ( tức là Bồ
Tát )
d)
Điều này khá rơ, nếu ta để ư rằng :
c̣n với nhà sư th́ họ gán danh hiệu Đại
Sư !
(Đại
Sư đối với Đại
Sĩ, dùng cho cư sĩ)
e)
Sự thực, đây là một tôn hiệu ;
bởi v́ ta cũng gọi Quán Thế
Âm Bồ Tát và Bồ Tát Văn Thù là Đại Sĩ !
( Hai vị Bồ Tát này đă Kiến Tánh.
Người đă Kiến Tánh dẫu
cao siêu cách mấy cũng chẳng dám so b́ với hai vị Bồ Tát này )
(
Kinh Đại Bát Niết Bàn :
Bồ Tát thấy Tánh mà không rơ ràng.
Thấy
Tánh mà không rơ ràng tức là Bồ Tát vẫn chưa Kiến
Tánh.
Nhưng
Quán Thế Âm Bồ Tát và Bồ Tát
Văn Thù th́ đă
Kiến Tánh. )
IX) Chữ ‘Đại Anh Hùng’ mà Ng. Anh dùng là ‘Đại
Trượng Phu’
Tôi
xem chữ ‘Đại Anh Hùng’ mà Ng. Anh dùng có nghĩa là
‘Đại Trượng Phu’. Dĩ nhiên,
ta không thể nghĩ rằng một cô sinh viên Dược
khoa lại có thể dùng chữ ḥan toàn đúng với ư
nghĩa trong
Thiền Tông
Lịch
sử (một chút khác biệt với ư nghĩa
thường ngày)
Với
ư nghĩa ‘Đại Trượng Phu’ này, Ng. Anh
quả đă coi chỉ tay rất hay : người
một ḷng chân thành tu Thiền Tông quả
có hi vọng trở thành ‘Đại
Trượng Phu’.
Ng.
Anh cũng là người rất thành thật, biết sao
nói vậy, chẳng quanh co ; vào thời
điểm đó, chắc chắn rằng không một
người nào (trừ Ng. Anh) lại có thể dám nói
rằng tôi có Dấu hiệu ‘Đại Anh Hùng ...’
trong bàn tay. Không một người nào
(trừ Ng. Anh) ! chắc chắn là vậy !
X) Đề
nghị : Thiền
sư đă Kiến Tánh gọi là Đại Sư
Đề nghị : Cư sĩ đă Kiến Tánh gọi là Đại Sĩ
Tôi
kết luận bài viết này, bằng cách đưa ra hai Đề nghị :
Đề nghị :
Thiền sư đă Kiến Tánh gọi là Đại Sư
Đề nghị :
Cư sĩ đă Kiến Tánh gọi là Đại Sĩ
bởi
2 lư do :
1)
người ta đă gọi Thiền sư Kiến Tánh là Đại Sư, Cư sĩ Kiến Tánh là Đại Sĩ
Hai
Đề nghị này chỉ là hợp thức hóa
sự kiện.
2)
Cư sĩ đă Kiến Tánh không chính thức có danh
xưng ! (như đă nói ở bài
trước). Chỉ có lèo tèo vài người như cư
sĩ Bàng Long Uẩn được gọi là Đại Sĩ (Tương Dương Bàng Đại
Sĩ)
*
*
*
Lê Anh Chí *.
_____________
Kinh sách tham
khảo
Kinh :
Kinh Đại Bát Niết Bàn,
dịch giả Thích Trí Tịnh
Đại Thừa Kim Cang Kinh
Luận
Cuộc đời Đức
Phật (Trích dẫn Kinh), dịch giả Thích Trung Quán
Kinh Kim Cang
Kinh Lăng Nghiêm, dịch giả Trí Độ và Tuệ Quang
Kinh
THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG, dịch giả Nhẫn
Tế
Kinh Trường A Hàm, dịch giả Thích Thiện Siêu
Kinh Vô Ngă
Tướng, dịch
giả Phạm Kim Khánh
Ngữ Lục
(đến đời Lục Tổ):
Sáu cửa Thiếu Thất,
Đạt Ma Sư Tổ, dịch giả Trúc Thiên
Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục
Tổ, dịch giả Thích Minh Trực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác, dịch
giả Trúc Thiên
Ngữ Lục
(sau đời Lục Tổ):
Bá Trượng Ngữ Lục, dịch
giả Thích Duy Lực
Truyền Tâm Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch giả Thích Duy
Lực
Cội nguồn truyền
thừa và phương pháp tu tŕ của thiền tông,
Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền
Chơn tâm trực thuyết,
Phổ Chiếu
Lâm Tế Ngữ Lục
Thiền Đốn Ngộ,
nhiều tác giả : Huyền Giác, Huệ Hải,
Thạch Thành Kim, Oánh Sơn,
Hư Vân; dịch giả Thích Thanh Từ
Tọa Thiền Luận,
Đại Giác, dịch giả Như Hạnh
Tu tâm quyết, Phổ Chiếu
Sách :
Nam
Hoa Kinh, Trang Tử, dịch giả Ngô Tất Tố
Nam
Hoa Kinh, Trang Tử, dịch giả Nguyễn Hiến Lê
Tứ
Diệu Đế, Thích Thiện Hoa
Mặc
Tử, Nguyễn Hiến Lê
Cuộc đời Thánh Tăng
Đại Ca Diếp, Nguyễn Điều,
Cuộc đời Tôn Giả
Xá Lợi Phất, Nguyễn Điều,
Cuộc đời Tôn Giả
Mục Kiền Liên, Nguyễn Điều,
Đường Mây Trên
Đất Hoa, Thích Hằng Đạt và Nguyên Phong
Phật Giáo Khái Luận, Thích
Chơn Thiện,
Thiền Sư Việt Nam, Thích
Thanh Từ
Tổ Thiền Tông, Thích Thanh
Từ
Thiền Đạo Tu Tập,
Trương Trừng Cơ, dịch giả Như Hạnh
Triết Học Trần Thái
Tông, Nguyễn Đăng Thục
Thiền
Luận, D.T Suzuki, Trúc Thiên dịch, NXB An Tiêm, Sài G̣n 1973
Cổ Học Tinh Hoa, Nguyễn
văn Ngọc và Trần Lê Nhân
Nho Giáo, Trần Trọng Kim
Việt
Nam Phật Giáo sử luận,
Nguyễn Lang, NXB Văn Học, Hà Nội 1994
Cao Tăng Dị Truyện,
Hạnh Huệ biên dịch
Đại Việt Sử Kư
Toàn Thư, Sử quan đời Trần và Lê
Việt Nam Sử Lược,
Trần Trọng Kim
Đông
Châu Liệt Quốc
Hán
Sở Tranh Hùng
Sử Kư , Tư Mă Thiên
Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa,
La Quán Trung, dịch giả Tử Vi Lang
Anh
Hùng Xạ Điêu, Kim Dung
Thần
Điêu Hiệp Lữ, Kim Dung
Ỷ
Thiên Đồ Long Kư, Kim Dung
Tiểu
Lư Phi Đao, Cổ Long
Huyết
Tâm Lệnh, Cổ Long
Long
Hổ Phong Vân, Cổ Long
*
*
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
Mục Lục Thơ ‘họa thơ,
lẩy Kiều’
Mục Lục ‘‘Kiến Tánh Thành Phật’’
------------------------------------------------------------------
*
Trang Chính
* Mục
Lục * Luận 1 * Luận
2 * Thơ 1 * Thơ
2
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Nối kết Trang Nhà Phật Pháp Việt
Nam * Nối
kết Văn Học *
------------------------------------------------------------------------------
* Bài
Xưa
* Bài
mới Kiến Tánh * Bài
mới Trang LêAnhChí *
---------------------------------------------------------------
*
Liên Kết
TrangNhà
LêAnhChí :
* Trang Chính * ML_ViệtSử,Văn * ViệtSử,
Văn 3 * ViệtSử, Văn 4 * Bài mới LêAnhChí *