Ngũ Tổ và Luc Tổ : niệm niệm không trụ !

( Yếu chỉ thiền tông và giải quyết vấn đề vô niệm)

 

                           Lê Anh Chí

 

__________________________________________

 

Dàn Bài :

I) "Không trụ vào đâu cả ! "

II) Ngũ Tổ : Niệm niệm chớ trụ !

III) Pháp Lục Tổ có từ Ngũ Tổ

IV) Yếu chỉ thiền tông : Không trụ và không trụ

V) Giải quyết vấn đề vô niệm :Niệm mà không trụ !

VI) Không trụ , không trụ và không trụ

VII) Đông Sơn pháp môn : Thiền Tông là Thiền của Ngũ T

__________________________________________

 

 

 

I) "Không trụ vào đâu cả ! "

 

Tất cả bắt nguồn từ "Không trụ vào đâu cả !" trong Kinh Kim Cang.

Trước nay, tôi đă nói nhiều về :

_"Không trụ vào đâu cả !" th́ Kiến Tánh .

và tôi đă dùng kiến giải của tôi để giải thích.

( Đó là các bài :

       Không trụ vào đâu cả !

       Đại ư Kinh Kim Cang = Không trụ vào đâu cả !

       Nguyên Lư Vượt Nhập và Phá Nhập

)

Tôi đă chứng minh rằng Phật nói trong Kinh Kim Cang :

_"Không trụ vào đâu cả !" th́ Kiến Tánh .

Xem bài

       "Không trụ vào đâu cả ! " th́ Kiến Tánh tức th́ !

 

"Không trụ vào đâu cả !" c̣n là Yếu Chỉ Thiền Tông . Xem bài :

       Yếu chỉ Thiền Tông = Không trụ vào đâu cả !

 

 

II) Ngũ Tổ : Niệm niệm chớ trụ !

 

A) Ngũ Tổ đă dạy : "Niệm niệm chớ trụ !", trong Luận Tối Thượng Thừa .

 

a) đây là ‘biến thế‘ của"Không trụ vào đâu cả !"

b) Ngũ Tổ đă dạy như vậy hai lần trong Luận Tối Thượng Thừa.

c)đây c̣n là phương thức Kiến Tánh, Ngũ Tổ nói trong Luận Tối Thượng Thừa :

_niệm niệm mài luyện ch tr, tức t thấy Phật Tánh.

 

B) Như đă viết trong bài Đoản Luận :

       Ngũ Tổ Kiến Tánh khi nào và do đâu?

Ta có thể quả quyết rằng Ngũ Tổ đă Kiến Tánh bởi Kinh Kim Cang :

1) Các thiền sư thường dùng sở ngộ làm sở trường (dễ hiểu thôi). Dạy người Kiến Tánh bằng cách luyện Kinh Kim Cang, vậy Ngũ Tổ cũng Kiến Tánh bởi Kinh Kim Cang !

2) Nếu Ngũ Tổ không Kiến Tánh bởi Kinh Kim Cang  tất không dám dạy pháp Kim Cang Công Truyền

3) Ta c̣n có thể nói rằng  Ngũ Tổ Kiến Tánh bởi pháp "Không trụ vào đâu cả !"

Do đó, ngay khi được truyền ngôi Tổ, bắt đầu giảng kinh thuyết pháp Đông Thiền T, phía Tây thành Hoàng Mai. , Ngũ T đă truyền ngay pháp Kim Cang Công Truyền, mà đại ư là"Không trụ vào đâu cả ! ".

Không những thế, Ngũ Tổ đă dạy : Niệm niệm chớ trụ ! trong Luận Tối Thượng Thừa ; là ‘biến thế‘ của"Không trụ vào đâu cả ! "

 

C) Phương thức "Niệm niệm không trụ" có khác với "Không trụ vào đâu cả !" :

a) Nhất thời "Không trụ vào đâu cả !" th́ Kiến Tánh.

b) "Niệm niệm không trụ" th́ là phương pháp thường hằng : bất cứ niệm nào hiện lên, ta đều không trụ vào niệm đó ; khi xử thế tiếp vật, niệm niệm đều không trụ.

c) cứ có niệm, nhưng không trụ : niệm mà không trụ.

 

 

III) Pháp Lục Tổ có từ Ngũ Tổ

 

Trích Kinh Pháp Bảo Đàn :

{{ Chư Thiện tri thức, pháp môn của ta đây t trên truyền xuống, trước hết lập Không Niệm ( Niệm) làm tông, Khôngớng (ớng) làm th, Không Tr ( Tr) làm gốcKhông niệm nghĩatrong khi niệm, ḷng không động niệmKhôngớng nghĩa là đối với sắcớng, ḷng ĺa sắcớngKhông tr nghĩa là đối với các điều lành d, tốt xấu thế gian, cùng với k thù, người thân, đối với lúc nghe các lời xúc pham, châm chích, khinh khi, tranh đấu, Bổn tánh con người xem c thảy như không không, chẳng nghĩ đến việc đền ơn tr oánTrong niệm niệm ḷng không nghĩ đến các cảnh ḿnh đă gặp trước.  Nếu niệm trước, niệm nay, niệm sau, niệm niệm nối tiếp nhau chẳng dứt, th́ gọi là b buộc ràng.  Đối với các pháp, niệm niệm ḷng không tr vào đâu th́ khỏi b buộc ràng.  Ấy là lấy Không Tr làm Gốc. }}

 

Đoạn văn trên là căn bản của Pháp Lục Tổ , là tinh hoa của Kinh Pháp Bảo Đàn . Lục Tổ nói : Không Niệm làm tông, Khôngớng làm th, Không Tr làm gốc. Kỳ thực , chỉ có một pháp, Không Tr :

_Không Niệm : Niệm Không Tr 

_Khôngớng : Không Tr  vào cácớng

 

Pháp Lục Tổ có từ Ngũ Tổ :

_niệm niệm không tr : Ngũ Tổ đă dạy : "Niệm niệm chớ trụ !" trong Luận Tối Thượng Thừa

_Không Tr là xuất phát Kim Cang công truyền t sư là Ngũ Tổ .

 

Cũng dễ hiểu thôi ! Lục Tổ là học tṛ Ngũ Tổ , vậy Lục Tổ dạy lại những ǵ Ngũ Tổ đă dạy, th́ đúng rồi !

 

Ở đây , chúng ta không cấp bằng phát minh : Lục Tổ có quyền dạy lại những ǵ Ngũ Tổ đă dạy. Tôi xin nhấn mạnh một điểm : Ngũ Tổ là vị thiền sư vĩ đại. Xưa nay, người ta thường ca tụng Lục Tổ , có kẻ c̣n bảo Thiền Tông Đông Độ bắt đầu từ Lục Tổ . Không phải thế, Thiền Tông Đông Độ :

_bắt đầu từ Tổ Đạt Ma

_phát triển bởi Ngũ Tổ    ( với sắc thái đặc thù của Thiền Tông Đông Độ).

 

Ta có thể nói rằng Thiền Tông ( với sắc thái đặc thù của Thiền Tông Đông Độ) bắt đầu từ Ngũ Tổ .

 

C̣n Pháp Lục Tổ có từ Ngũ Tổ . Điều đặc biệt của Lục Tổ là Lục Tổ có tài Trực Chỉ.

C̣n tài Trực Chỉ của Ngũ Tổ ra sao th́ chúng ta không biết. Ngay đến việc giảng kinh Kim Cang của Ngũ Tổ ra sao th́ sách vở cũng chẳng ghi lại. Chỉ biết rằng khi Ngũ Tổ bắt đầu thuyết pháp ở Chùa Đông Thiền, huyện Huỳnh Mai , th́ nơi đó có hơn ngàn người tụ hợp . . .(Nên nhớ rằng đệ tử của Tổ không phải lúc nào cũng ở với Ngũ Tổ , có người đến rồi đi như Huệ An).

 

 

IV) Yếu chỉ thiền tông : Không trụ và Không trụ

 

Có hai yếu chỉ thiền tông :

1) "Không trụ vào đâu cả !"

Đây là yếu chỉ thứ nhất của Thiền Tông .

 

2) "Niệm niệm không tr"

đây là ‘biến thế‘ của"Không trụ vào đâu cả ! " và là yếu chỉ thứ nh́ của Thiền Tông

Ngũ Tổ đă dạy pháp này, hai lần trong Luận Tối Thượng Thừa.

 

 

V) Giải quyết vấn đề vô niệm :Niệm mà không trụ !

 

Người tu Phật thường thích Không và sợ vọng niệm. Do đó, thường mong được vô niệm. Đây là một vấn đề lớn lao : làm sao được vô niệm và có nên vô niệm hay không ?

Ngũ Tổ đă giải quyết vấn đề vô niệm : Niệm mà không trụ !

 

Thời nay, vẫn c̣n nhiều người mong vô niệm ; đó là một sai lầm lớn. Nên nhớ rằng : cứ niệm, chỉ cần không trụ !

Ngũ Tổ đă giải quyết vấn đề vô niệm như vậy.

 

Lục Tổ cũng lập lại như vậy và nói thêm :

{{ Bằng đối với trăm việc, tâm chẳng nghĩ đến, các niệmởng đều b hết, nếu một niệm dứt tuyệt, th́ chết liền phải chịu đầu sanh nơi khác.}}

 

 

VI) Không trụ , không trụ và không trụ

 

1) Yếu chỉ

Yếu chỉ thứ nhất của Thiền Tông"Không trụ vào đâu cả ! ". Đây cũng là đệ nhất tuyệt chiêu của Thiền Tông.

Yếu chỉ thứ nh́ của Thiền Tông"niệm niệm không tr". Đây cũng là đệ nhị tuyệt chiêu của Thiền Tông.

 

2) Vài áp dụng của " Không Tr" vào thiền hành

 

Chẳng phải Tâm Không  mà là Tâm Không Tr

Chẳng phải Đối Cảnh Tâm Không mà là Đối Cảnh Tâm Không Tr

Chẳng phải Tâm Không Theo Vật mà là Tâm Không Tr Vào Vật

( Thiền-sư Huệ Hải : "Tâm theo vật")

Chẳng phải Không Niệm mà là Niệm mà Không Tr

Chẳng phải Không Niệm mà là Niệm Niệm Không Tr

 

Chẳng phải Không mà là Không Tr

 

 

VII) Đông Sơn pháp môn : Thiền Tông là Thiền của Ngũ T

 

Tên chính thức đầu tiên của Thiền Tông Đông Sơn Pháp Môn. Trước đó, Thiền Tông không có tên chính thức, v́ người ngoài chưa chấp nhận chữ Thiền Tông. Ta th đoán rằng , người đương thời thường gọi , một cách khiếm nhă, Thiền Tôngtông phái của La Môn Đạt Ma. Những người t tế hơn, th́ gọi theo định nghĩa : gọi Thiền Tôngtông phái Kiến Tánh.

Đông Sơn Pháp Môn tên chính thức danh xưng này được c người trong ngoài Thiền Tông công nhận.

Người Thiền Tông công nhận  :

a) Đông Sơn Pháp Môn là Thiền của Ngũ T. Sao lại là Đông Sơn pháp môn ? - Đông Sơn là nơi tọa lạc của Ngũ Tổ.

b) Gọi là Đông Sơn Pháp Môn là cách gọi lễ phép, tôn kính. Xưa nay, để tỏ ḷng kính trọng, người Tàu không gọi thẳng tên mà gọi nơi chốn :

_gọi bằng tên tục , th́ là vô phép.

_gọi bằng tên tự , th́ là lễ phép.

_gọi bằng nơi chốn , th́ là tỏ ḷng tôn kính.

Đông Sơn Pháp Môn là danh xưng chính thức đầu tiên của  Thiền Tông.

Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ cũng nói là ngài truyền bá Đông Sơn pháp môn.

 

 

Danh xưng Đông Sơn pháp môn ngụ ư rằng Thiền Tông là Thiền của Ngũ T .Ngày xưa th́ ràng :  Thiền Tông là Thiền của Ngũ T . Bây gi th́ sao ?

_Bây gi th́ hơn phân nửa Thiền Tông là Thiền của Ngũ T .

 

Việc tu hành của pháp môn Kiến Tánh gồm 3 Phương Thức:

       1) truyền tâm ấn tâm (giáo ngoại biệt truyền)

       2) tự tu bằng Kinh Kim Cang

       3) khán công án, thoại đầu

Phương Thức thứ nhất th́ hiện tại gần như không có thực hành. V́ số người Kiến Tánh quá hiếm.( Phải Kiến Tánh rồi th́ mới dạy ‘truyền tâm ấn tâm’ được).

 

Phương Thức thứ hai là Kim Cang Công Truyền ; T Sư là Ngũ T .

 

Ngoài Phương Thức Kiến Tánh ra, lư thuyết, triết lư, sự học hỏi của Thiền tông thường xoay quanh "Tâm Vô Trụ" , xuất phát từ Kim Cang Công Truyền ; T Sư là Ngũ T .

(Ngũ tổ cũng có dạy "Vô Trụ" trong Luận Tối Thượng Thừa)

 

Nên, ta th nói : hơn phân nửa Thiền Tông là Thiền của Ngũ T.

 

C̣n hơn thế nữa, Ngũ T c̣n những ảnhởng lớn lao khác. Tôi đang viết thêm một vài bài luận nữa, đ xác định hơn pháp Thiền của Ngũ T công lao của Ngũ T , v thiền-sư đại.

 

Riêng bài đoản luận này nêu ra ba điều quan trọng v yếu chỉ thiền tông và giải quyết vấn đề vô niệm :

 

1) "Không trụ vào đâu cả !"

Đây là yếu chỉ thứ nhất của Thiền Tông .

 

2) "Niệm niệm không tr"

đây là ‘biến thế’ của"Không trụ vào đâu cả !" và là yếu chỉ thứ nh́ của Thiền Tông

Ngũ Tổ đă dạy pháp này, hai lần trong Luận Tối Thượng Thừa.

 

3) Giải quyết vấn đề vô niệm :Niệm mà không trụ !

 

Ba phương thức tối ư quan trọng này của Thiền Tông đều là pháp Thiền của Ngũ T công lao của Ngũ T , v thiền-sư đại.

*

*

* Lê Anh Chí *.

_____________

 

Kinh sách tham khảo

Kinh :

       Kinh Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh

       Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận

       Cuộc đời Đức Phật (Trích dẫn Kinh), dịch giả Thích Trung Quán

       Kinh Kim Cang, dịch giả Đoàn Trung C̣n

       Kinh Kim Cang, dịch giả Thích Trí Tịnh

       Kinh Kim Cang và Chánh Pháp chưa từng có, dịch và chú giải : Thích Huyền Vi

       Kinh Kim Cang, dịch giả Thích Duy Lực

Ngữ Lục (đến đời Lục Tổ):

       Sáu cửa Thiếu Thất, Đạt Ma Sư Tổ, dịch giả Trúc Thiên

       Luận Tối Thượng Thừa , Ngũ Tổ, dịch giả Thích Thanh Từ

       Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh Trực

       Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy Lực

       Chứng Đạo Ca, Huyền Giác,  dịch giả Trúc Thiên

Ngữ Lục (sau đời Lục Tổ):

       Bá Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy Lực

       Truyền Tâm Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch giả Thích Duy Lực

       Cội nguồn truyền thừa và phương pháp tu tŕ của thiền tông, Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền

       Chơn tâm trực thuyết, Phổ Chiếu

       Lâm Tế Ngữ Lục

       Thiền Đốn Ngộ, nhiều tác giả : Huyền Giác, Huệ Hải, Thạch Thành Kim, Oánh Sơn,  Hư Vân; dịch giả Thích Thanh Từ

       Tọa Thiền Luận, Đại Giác, dịch giả Như Hạnh

       Tu tâm quyết, Phổ Chiếu

Sách :

       Tứ Diệu Đế, Thích Thiện Hoa

       Thiền Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ

       Tổ Thiền Tông, Thích Thanh Từ

       Cao Tăng Dị Truyện, Hạnh Huệ biên dịch

 

             Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com

        --------------------------------------------------------------

        * Trang Chính * M ụ c  L ụ c  * Đoản Luận * Thơ *

------------------------------------------------------------------------------

* Hộp Thư * Bài mới * Nối kết Trang Nhà Phật Pháp Việt Nam *

------------------------------------------------------------------------------