Kiến Tánh Thành Phật 1
Lê Anh Chí
_______________________________
Dàn
Bài:
I)
Định nghĩa Kiến Tánh
II) Phật đă Kiến Tánh Thành
Phật
III) Kiến Tánh Thành Phật, Bản
Thể của Tâm
IV) Kiến Tánh Thành Phật, 16 năm
sau
Chú thích :
(1)
Phật thành đạo và Thập Nhị Nhân Duyên
Dàn
Bài Phần 2:
V) Kiến Tánh Thành Phật, muôn ngàn
chứng đắc
VI) Kiến Tánh Thành Phật,
đạo quả chín muồi
VII) Kiến Tánh Thành Phật, ngài
Đại Ca Diếp
VIII) Kiến Tánh Thành Phật, Bồ
Tát Văn Thù
IX) Kiến Tánh Thành Phật,
đương nhiên là Tổ !
X) Kiến Tánh Thành Phật, chứng
đắc tất cả các pháp của Như Lai !
XI) Kiến Tánh Thành Phật, chẳng
tự xưng là Phật !
XII) Kiến Tánh Thành Phật
Chú thích :
(2) câu chuyện Huyền Quang và Pháp
Loa
_______________________________
Trong
tiến tŕnh tu học của Đại Thừa, có A La Hán
quả, Bồ Tát quả và Phật quả. Thường,
nhiều vị Pháp Sư giảng rằng :
"muốn thành Phật th́ phải tu Bồ Tát
đạo."
Đối
với Thiền Tông, câu này không đúng ! Bởi v́ :
muốn thành Phật th́ phải Kiến Tánh !
Nói cách
khác, Kiến Tánh là điều kiện cần thiết
để thành Phật.
Vấn
đề thường đặt ra là : Kiến Tánh có phải là
điều kiện đủ để thành Phật hay
không ????
Nếu
Kiến Tánh là điều kiện đủ để thành
Phật, th́ tại sao nhiều người đă
Kiến Tánh lại c̣n tu nữa ?
Và
nếu Kiến Tánh không phải là điều kiện
đủ để thành Phật, th́ tại sao :
Thiền Tông vẫn nói Kiến Tánh Thành Phật ?
Chính Đức Như Lai
cũng nói Kiến Tánh Thành Phật ?
Bài
viết này có tham vọng trả lời những câu hỏi
trên, và do đó xác định lại cho rơ bốn chữ
"Kiến Tánh Thành Phật ".
I)
Định nghĩa Kiến Tánh
Mục
đích cùa Thiền Tông là Kiến Tánh. Thiền Tông là Pháp Môn
Kiến Tánh. Muốn hiểu rơ Thiền Tông ta cần
biết thế nào là Kiến Tánh.
[a]
Định nghĩa về lư
Kiến
Tánh là thấy tánh, là thấy Phật-tánh. Thấy đây là
tâm thấy, là thực chứng. V́ vậy :
Kiến Tánh là thể ngộ
Phật Tánh, thể chứng Đại Niết Bàn.
Chữ
<thể> được
lập lại, v́ đây là sự Thực
Chứng : chẳng phải kiến văn giác tri,
chẳng phải là biết, chẳng phải là hiểu. Ví
như phải tự ăn cơm th́ mới no, c̣n hiểu
biết rằng <ăn cơm th́ no> th́ chẳng ich
lợi ǵ !
Đại
Niết Bàn
chỉ là định nghĩa của Phật Tánh.
Đại Niết Bàn là Niết Bàn của Phật ( khác với Niết Bàn của
A La Hán). Và Phật Tánh là Đại Niết Bàn (Kinh
Đại Bát Niết Bàn ) .
Cũng
trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, đặc tính của
Phật Tánh là Thường, Lạc, Ngă, Tịnh.
V́
tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh từ vô
thỉ, v́ Phật Tánh là Tâm Vương chân thật của
ta, là cái Tâm chân thật sẵn có, luôn luôn hiện hữu
của ta nên Phật Tánh chính thật là Bản
Thể của Tâm (của Phật, của ta, của
tất cả chúng sinh).
Tóm
lại,
Kiến Tánh là thể ngộ
Phật Tánh, thể chứng Đại Niết Bàn,
chứng ngộ Thường, Lạc, Ngă,
Tịnh, chứng ngộ Bản Thể của
Tâm .
Định
nghĩa <Kiến Tánh> như trên, tuy ngắn, nhưng có
thể xem là đủ . Tuy thế, đây chỉ là
đầy đủ về lư ; muốn đủ
cả sự, ta cần thêm :
[b]
Định nghĩa về sự (Trạng thái Kiến
Tánh) :
Người
kiến tánh th́nh ĺnh, đột nhiên , bỗng nhiên
bước vào một trạng thái cao siêu mầu nhiệm,
trạng thái Đại Niết Bàn !
trạng thái mà Nhị Tổ
gọi là <nói không thể đến>
trạng thái mà Hư Vân
Đại Sư gọi là <sơn hà đại
địa thẩy Như Lai>
trạng thái mà Cao Phong
Đại Sư gọi là <kinh thiên động
địa>
trạng thái mà Chân Không
Đại Sư, thiền sư siêu việt của
nước ta thời Lư, gọi là :
Ví như đến
động nhà tiên
Thuốc tiên đổi
cốt tự nhiên trở về
. . .
trạng thái mà tất cả
người kiến tánh dều đồng ư : không ngôn
ngữ thế gian có thể diễn tả nổi
Trạng thái Kiến Tánh này
chính là sự kiến tánh !
V́
Kiến Tánh là một sự chứng ngộ đặc thù, v́ sự chứng
ngộ này đến một cách th́nh ĺnh, đột
nhiên nên Kiến Tánh c̣n được gọi là hoát
nhiên đại ngộ.
Xem thêm
bài
II)
Phật đă Kiến Tánh Thành Phật
Trong
Phật Giáo Nhị Thừa (tôi dùng chữ Nhị
Thừa v́ tránh dùng chữ Tiểu Thừa ), không hề
có chữ Phật Tánh. Người Nhị Thừa không
công nhận Phật Tánh. Và dĩ nhiên không có chuyện :
Phật đă Kiến Tánh Thành Phật. Họ bảo rằng :
Phật là A La Hán.
Đại
Thừa bảo rằng Phật quả là A La Hán, nhưng
Phật hơn A La Hán it nhất một bực :
Phật đă Kiến Tánh Thành Phật ! Phật thành
đạo là thành đạo Phật, chẳng phải thành
A La Hán !
Sự
khác biệt này -hầu hết Phật Tử đều
biết- là do trong mười mấy năm đầu chuyển
pháp luân, Phật quyền phương tiện chỉ nói
Nhị Thừa. Đến khi Phật thuyết Đại
Thừa, nhiều vị A La Hán không bằng ḷng, có lúc
biết Phật sắp thuyết Đại Thừa,
họ lễ Phật rồi bỏ đi !
Muốn
biết chuyện Phật đă Kiến Tánh Thành
Phật , cần phải đọc kinh điển Đại
Thừa.
Theo "Cuộc
đời Đức Phật (Trích dẫn Kinh)" (dịch giả Thích Trung Quán), và
một số kinh sách Đại Thừa, ta có thể
thấy rằng :
Thái
Tử Tất Đạt Ta, nơi Ni Liên Thiền, ngồi
dưới cây Bồ Đề, nhập Sơ thiền,
Nhị thiền, Tam
thiền, rồi Tứ thiền:
1)
Từ Tứ Thiền, đắc các phép thần thông
2)
Từ Tứ Thiền, t́m ra nguyên nhân của cái Khổ cùa
chúng sinh, nguyên nhân của Luân Hồi
3) tức
th́ dứt được Luân Hồi, giải thoát,
Đắc A La Hán !
4) sau
đó . . . Kiến Tánh và Thành Phật : một thời
gian (rất) ngắn sau khi Đắc A La Hán, Thái Tử
Tất Đạt Ta hoát nhiên đại ngộ và Thành
Phật !
5) lúc
đó, sao mai mọc và 21 ngày đă trải qua ở cội
cây Bồ Đề.
6) Trong
28 ngày sau: Phật ngồi hưởng trạng thái
Kiến Tánh, trạng thái Đại Niết Bàn !
Cần
nêu lên vài diểm quan trọng sau:
1)
Tứ Thiền :
Kinh
diển Nhị Thừa chỉ nói đến việc
Phật đắc A La Hán
Trong
cuốn ‘Phật Giáo Khái Luận’ của HT Chơn
Thiện, tác giả cả quyết rằng
Phật từ Tứ Thiền,
vào Tứ Không (Không Vô Biên , Thức Vô Biên, Vô Sở Hữu,
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng) rồi nhập Diệt
thọ tưởng định (DTTD) và thành đạo (1) .
Quan
điểm của HT không đúng :
- thiết tưởng
những người Nhị Thừa thuộc môn phái khác (khác
với Tứ Thiền Bát Định và DTTD ) cũng
chẳng đồng ư.
- làm sao t́m ra nguyên nhân của
cái Khổ cùa chúng sinh, nguyên nhân của Luân Hồi từ Diệt thọ
tưởng định ??? Xin nhớ rằng mục
đích của Thái Tử Tất Đạt Ta khi bỏ nhà
ra đi là : t́m nguyên nhân của cái Khổ cùa chúng sinh,
nguyên nhân của Luân Hồi. C̣n DTTD, th́ Thọ và
Tưởng đă diệt, lại c̣n định ở cái
Diệt này, th́ làm sao quán chiếu ??? Mà không quán chiếu
làm sao t́m ra nguyên nhân của cái Khổ cùa chúng sinh, nguyên nhân
của Luân Hồi ??? Tôi nghĩ rằng, trong kiếp
cuối cùng, Phật chưa từng tu DTTD ; DTTD là pháp
môn Phật chế ra để độ người (ngay
vị Đệ Nhất Tổ Thiền Tông là Đại
Ca Diếp cũng Đắc A La Hán nhờ DTTD (Kinh
Lăng Nghiêm))
- khi Phật Bát Niết Bàn,
Phật thị hiện Sư Tử Phấn Tấn Tam
Muội (STPTTM) nhiều lần rồi từ Tứ
Thiền nhập Niết Bàn. Trong STPTTM có DTTD, thế mà
Phật nhập Niết Bàn từ Tứ Thiền !
Sự kiện này, có ghi trong kinh điển Nhị Thừa
:
a) chứng tỏ rằng
Đại Niết Bàn, Niết Bàn của Phật, khác
với Niết Bàn của A La Hán (DTTD là Niết Bàn của A
La Hán).
b) là một bằng chứng
rằng từ Tứ Thiền, Phật đắc A La Hán,
rồi Kiến Tánh Thành Phật !
2)
Kiến Tánh Thành Phật:
Thường,
trong Thiền Tông, thiền sinh được Kiến Tánh
là do một động lực nào đó. Như Lư cư
sĩ Kiến Tánh v́ Ưng Vô Sở Trụ. Như Tổ Ca Diếp Kiến Tánh v́
Phật Niêm Hoa. C̣n động lực Kiến Tánh của
Phật là ǵ ?
Việc
này chúng ta không biết.
Ta có
thể đoán rằng do sự quán chiếu cái Khổ
của chúng sinh mà Phật đắc A La Hán, rồi
Kiến Tánh Thành Phật ngay sau đó !
Nên
nhớ rằng không thể lấy tri kiến của chúng
sinh mà đo lường tri kiến của Như Lai (ngay
cả đo lường tri kiến của vị Phật
sắp thành, Thái Tử Tất Đạt Ta, cũng không
thể được). Phật th́ không cần động lực
từ ngoài vào để Kiến Tánh !
3)
Phật đă đắc A La Hán trước khi Kiến Tánh
Điều
này cần ghi lại v́ hầu hết các thiền sinh sau này
đều chưa đắc A La Hán trước khi
Kiến Tánh !
Tóm
lại, Phật đă Kiến Tánh Thành Phật:
Thái
Tử Tất Đạt Ta, nơi Ni Liên Thiền, trong 21
ngày : nhập Tứ thiền, quán chiếu nguyên nhân
của Luân Hồi Sanh Tử, giải thoát, đắc A La
Hán rồi Kiến Tánh Thành Phật ! Trong 28 ngày sau:
Phật ngồi hưởng trạng thái Kiến Tánh,
trạng thái Đại Niết Bàn !
III)
Kiến Tánh Thành Phật, Bản Thể của Tâm
Trước
hết, Thế nào là Phật ???
Phật
là Đấng Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, . . . thần thông
diệu dụng ra vào ba cơi, tỉ triệu chánh
định, quán chiếu được
tâm chúng sinh trong vũ trụ, giải thoát hoàn toàn, sáng suốt
hoàn toàn, viên măn Thường, Lạc, Ngă, Tịnh . . .
Những
"đặc tính" của Phật như trên rất là
dài ḍng, ta có thể tóm tắt lại làm 2 phần :
"thể" và
"dụng". Thể là Phật Tánh, là bản
thể của tâm. Dụng, c̣n gọi là đại
cơ đại dụng, là thần thông diệu dụng,
ra vào ba cơi, tỉ triệu chánh định, quán chiếu được tâm
chúng sinh trong vũ trụ, sáng suốt hoàn toàn . . .
Khi
Phật Kiến Tánh Thành
Phật, Phật có đầy đủ
"thể" và
"dụng".
Kiến
Tánh là chứng ngộ Bản Thể của Tâm,
nhưng đại đa số người kiến tánh
chưa có đại cơ đại dụng của
Phật.
Chỉ
có "thể" chưa có "dụng" như thế
, có thể gọi là Thành Phật chăng ?
Lục
Tổ và Đạt Ma Sư Tổ đă trả lời,
một cách chắc nịch, rằng: Thành Phật !
Trong
Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ nói rằng Kiến
Tánh là Thành Phật Đạo.
Đạt
Ma Sư Tổ giải thích rơ ràng tại sao Kiến Tánh
quả là Thành Phật : v́ ngoài "cái ông Phật
Tánh" ra không có "ông Phật" nào khác ! (Sáu
cửa Thiếu Thất).
Như
vậy,
Kiến Tánh = Thành
Phật
nhưng
ta cần biết rơ ràng rằng : Phật đây là
bản thể của tâm , là "cái ông Phật Tánh" !
Các
vị Tổ, các vị thiền sư, dù không cả
quyết như Lục Tổ và Đạt Ma Sư Tổ,
nhưng cũng đều
nói vậy. Khi một thiền sinh đă Kiến Tánh, th́ các
vị thầy bảo :" đại sự của
ông đă xong !" .
Đại
khái, trong Thiền Tông, một khi đă Kiến Tánh th́ là .
. . hết chuyện !
Nhưng
thiền sinh đă Kiến Tánh, hầu hết không chịu
ngừng ở bản thể của tâm và tu tiếp .
Bởi thế, mới có . . . .
IV)
Kiến Tánh Thành Phật, 16 năm sau
Thời
kỳ tu hành ngay sau khi Kiến Tánh gọi là thời kỳ
bảo nhậm:
Tu sao để đi
đứng nằm ngồi đều thấy tánh.
Thời
kỳ này tối thiểu là 16 năm. Tại sao ? V́
Lục Tổ, sau khi Kiến Tánh, ẩn dật 16 năm. .
.
Ngũ
Tổ khi truyền y bát cho Lục Tổ, có dặn
rằng : "cần phải hộ niệm".
Hộ niệm đây là nói việc bảo nhậm.
Một
khi đi đứng nằm ngồi đều thấy
tánh, đều thấy Niết Bàn, th́ đối với
quan niệm tu hành của nhà Phật, như vậy quả
là thành Phật Đạo. C̣n thần thông biến hóa,
đối với nhà Phật, chẳng phải là chánh pháp.
Ngay cả những chánh định (chánh định theo nghĩa
Nhị Thừa) cũng chẳng quan trọng, v́ lúc nào
cũng thấy tánh : c̣n muốn ǵ hơn ?
(lúc nào
cũng thấy tánh là chánh định, thường
định theo nghĩa Thiền Tông)
Sở
dĩ có việc bảo nhậm này, là v́ b́nh
thường đi tới đi lui, làm việc, ta
thường suy nghĩ vẩn vơ, nói vẩn vơ.
Đây là thói quen b́nh sinh, tập khí từ vô thủy.
Cần phải biến những vọng tưởng đó
thành đại viên cảnh trí.
Đi
đứng nằm ngồi đều thấy tánh !
Việc bảo nhậm này, người ngoài nh́n vào
thấy như thời gian luống uổng trôi qua !
(Bởi v́ cũng chỉ những hành động tới
lui như bao kẻ phàm phu). Nhưng không, nếu đă
Kiến Tánh th́ cái thấy khác hẳn người
thường, khác nhiều lắm ! V́ thấy tánh ! Khi chưa
thấy tánh th́ Vọng và Chân đều là Vọng.
Đă thấy tánh th́ mới . . . thấy tánh ! th́
mới thấy Chân !
Khi
chưa thấy tánh th́ Vọng và Chân đều là
Vọng. Do đó, chỉ có thể tập "Đi
đứng nằm ngồi đều thấy tánh "
khi đă Kiến Tánh. Bàng Cư Sĩ nói :
Thần thông và diệu dụng
Gánh nước cùng bửa
củi !
đây
là diễn tả cái thấy, cái trạng thái, khi gánh
nước cùng bửa củi, trạng thái này mầu
nhiệm như thần thông, chớ chẳng phải
bảo gánh nước, bửa củi là thần thông.
Nếu
bảo nhậm, th́ sau khi Kiến Tánh, tu nhàn hạ
như chẳng tu, tu là hoan lạc !
Nhiều
người bảo rằng nếu sau khi Kiến Tánh
vẫn tu tiếp, như vậy th́ Kiến Tánh rồi
vẫn chưa "xong" ! Đây là lư luận
thường t́nh của thế gian, ví như học cho có
bằng cấp để . . . khỏi học ! Sự
thực th́ :
1) Sau
khi Kiến Tánh, tu hành là việc tự nhiên, tự nhiên
như đi đứng nằm ngồi ăn uống
đối với người thường !
2) Tu là
hoan lạc
3) Tu
nhàn hạ như chẳng tu
4) Không
bắt buộc phải tu (Mục đích cùa Thiền Tông là
Kiến Tánh, Kiến Tánh rồi th́ đại sự đă
xong)
5) Ai
đắc đạo rồi cũng tu tiếp cả,
dù đắc đạo với bất cứ pháp môn
Phật Pháp nào !
Ai
đắc đạo rồi cũng tu
tiếp cả ! Lấy trường hợp Đắc
A La Hán, của Nhị Thừa :
1) Khi
mới Đắc A La Hán th́ gọi là Khô Đầu A La Hán.
Những vị này cần phải tu hành môt thời gian cho
thuần thục cái pháp đă đắc (thời gian này
tính theo số năm). Nhị Thừa cũng có thời
kỳ bảo nhậm !
2)
Những vị A La Hán
đệ tử Phật cũng tu măi tu hoài. Như
ngài Mục Kiền Liên : ngài chứng đắc A La Hán
sau 7 ngày tu hành ! Từ đó đến ngày viên tịch,
khoảng 40 năm, ngài làm ǵ ? Tu tiếp ! Trừ
thời gian bỏ ra để hướng dẫn một
số sư đệ, ngài nghe Phật giảng kinh và tu
hành !
Xem
tiếp Phần 2 :
--------------------
Chú
thích :
(1)
Phật thành đạo và Thập Nhị Nhân Duyên
Trong
đoạn " Con đường Thiền Định mà Thế Tôn
đi qua ",
cuốn "Phật Giáo Khái Luận", HT Thích Chơn
Thiện quả có nói rằng Phật từ Tứ
Thiền, vào Tứ Không rồi nhập Diệt thọ
tưởng định (DTTD) và thành đạo.
Nhưng
trong bài viết "Lược Sử Đức
Phật" HT Thích Chơn Thiện lại nói rằng
Phật thành đạo nhờ quán Thập Nhị Nhân Duyên.
Dĩ
nhiên, đây là " thành đạo " theo nghĩa Nhị
Thừa.
Tuy
thế, viẹc này phù hợp với quan điểm
Thiền Tông. Giả thuyết
" Phật quán Thập Nhị Nhân Duyên rồi
Kiến Tánh Thành Phật " thật có lư :
Trong Kinh Đại Bát Niết
Bàn, Phật dạy rằng : quán Thập Nhị Nhân
Duyên th́ bậc Thượng Trí Đại Căn của
thế gian tối đa chỉ có thể đắc Duyên
Giác, Bích Chi Phật ; phải là bậc Thượng
Thượng th́ mới có
thể Kiến Tánh. Đây có lẽ là Phật gián tiếp
nói về lúc Phật thành đạo.
Trong bài
này, tôi chỉ nói rằng do sự quán chiếu cái Khổ
của chúng sinh mà Phật đắc A La Hán, rồi
Kiến Tánh Thành Phật ngay sau đó ! Bởi v́
cuốn Cuộc Đời Đức Phật (Trích dẫn
Kinh) không có nói rơ ra việc "quán Thập Nhị Nhân
Duyên" .
Tóm
lại, ta có thể đoán rằng :
Thái Tử Tất Đạt
Ta, nơi Ni Liên Thiền, trong 21 ngày : nhập Tứ
thiền, quán
chiếu nguyên nhân của Luân Hồi Sanh Tử, t́m ra Tứ
Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên giải thoát,
đắc A La Hán, quán lại Thập Nhị Nhân Duyên mà
Kiến Tánh Thành Phật !
Xem
tiếp Phần 2 :
*
*
* Lê Anh
Chí. *
______________
Kinh
sách tham khảo
Kinh :
Kinh Đại Bát Niết Bàn,
dịch giả Thích Trí Tịnh
Đại Thừa Kim Cang Kinh
Luận
Kinh Kim Cang
Kinh Trường A Hàm
Kinh Lăng Nghiêm, dịch giả Trí Độ và Tuệ Quang
Cuộc đời Đức
Phật (Trích dẫn Kinh), dịch giả Thích Trung Quán
Ngữ
Lục (đến đời Lục Tổ):
Sáu cửa Thiếu Thất,
Đạt Ma Sư Tổ, dịch giả Trúc Thiên
Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục
Tổ, dịch giả Thích Minh Trực
Ngữ
Lục (sau đời Lục Tổ):
Cội nguồn truyền
thừa và phương pháp tu tŕ của thiền tông,
Nguyệt Khê
Chơn tâm trực thuyết,
Phổ Chiếu
Lâm Tế Ngữ Lục
Thiền
Đốn Ngộ, nhiều tác giả : Huyền Giác,
Huệ Hải, Thạch Thành Kim, Oánh Sơn, Hư Vân; dịch giả Thích Thanh
Từ
Tọa Thiền Luận,
Đại Giác, dịch giả Như Hạnh
Tu tâm quyết, Phổ Chiếu
Sách :
Cuộc đời Thánh Tăng
Đại Ca Diếp, Nguyễn Điều,
Đường Mây Trên
Đất Hoa, Thích Hằng Đạt và Nguyên Phong
Phật Giáo Khái Luận, Thích
Chơn Thiện
Thiền Đạo Tu Tập,
Trương Trừng Cơ, dịch giả Như Hạnh
Triết
Học Trần Thái Tông, Nguyễn Đăng Thục
*
*
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
Mục Lục ‘‘Kiến Tánh Thành Phật’’
-------------------------------------------------------
* Trang Chính
* M
ụ c L ụ c * Đoản
Luận * Thơ *
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Nối kết Trang Nhà Phật
Pháp Việt Nam * Nối kết Văn Học *
------------------------------------------------------------------------------
* Bài
Xưa
* Bài
mới Kiến Tánh * Bài mới
Trang LêAnhChí *
---------------------------------------------------------------
*
Liên Kết
TrangNhà LêAnhChí :
* Trang Chính * Việt
Sử, Văn Học *
Thơ * Bài mới LêAnhChí *